Luật sư Hồ Ngọc Diệp - Đoàn Luật sư Thành Phố Hồ Chí Minh

Một số quy định về chế tài của Luật Thương mại năm 2005 cần được hoàn thiện (1)

23/11/2016, 08:09

Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, Luật này ra đời trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán gia nhập WTO (viết tắc từ tiếng Anh World Trade Organization), nó có vai trò là sứ mệnh lịch sử đưa Việt Nam gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới.

Sau hơn 10 năm thi hành đã đạt được những kết quả đáng kể, nhưng cũng đã bộc lộ những bất cập cần được sửa đổi cho phù hợp với tình hình và bảo đảm sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Chẳng hạn, trong quan hệ giữa các thương nhân, pháp luật thương mại có những quy định nhằm duy trì và bảo đảm sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Khi một hợp đồng thương mại đã được giao kết hợp pháp và phát sinh hiệu lực pháp luật thì các bên phải thực hiện các nghĩa vụ mà mình đã thỏa thuận trong hợp đồng. Việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng dẫn đến hậu quả bên vi phạm phải chịu chế tài, bao gồm các chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại mà bên bị vi phạm có quyền được lựa chọn áp dụng hoặc yêu cầu áp dụng chế tài. Đó là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong thương mại. Nếu một bên vi phạm hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả pháp lí (bất lợi) nhất định do hành vi vi phạm đó gây ra. Tuy nhiên, thực tiễn xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng thương mại trong thời gian qua vẫn còn một số vấn đề gây tranh cãi, một số quy định của Luật Thương mại năm 2005 gây “khó khăn” cho các cơ quan giải quyết tranh chấp và các bên trong việc xác định hình thức xử lý đối với bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Những vấn đề này phần lớn xuất phát từ sự bất cập của các quy định về chế tài trong thương mại. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ đi sâu phân tích về một số bất cập của chế tài trong thương mại cần được nghiên cứu sửa đổi để đạt được hiệu quả cao hơn trong quá trình điều chỉnh các vấn đề trong hoạt động thương mại.

Theo Điều 292 Luật Thương mại năm 2005, chế tài trong thương mại bao gồm các loại sau:

– Buộc thực hiện đúng hợp đồng là hình thức chế tài theo đó bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.
– Phạt hợp đồng là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận trên cơ sở của pháp luật.
– Tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong thương mại là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Khi hợp đồng trong thương mại bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực.

– Đình chỉ thực hiện hợp đồng trong thương mại là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Khi hợp đồng trong thương mại bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ hợp đồng có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.

– Hủy bỏ hợp đồng trong thương mại là sự kiện pháp lí mà hậu quả của nó làm cho nội dung hợp đồng bị hủy bỏ và không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng có thể là hủy bỏ một phần hợp đồng hoặc hủy bỏ toàn bộ hợp đồng. Khi hợp đồng bị hủy bỏ toàn bộ, hợp đồng đó được coi là không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và những thỏa thuận để giải quyết tranh chấp.
Từ nội dung quy định các hình thức chế tài thương mại nêu trên, thực tiễn áp dụng đã bộc lộ những hạn chế, như sau:

Một là, về khái niệm hình thức chế tài “Buộc thực hiện đúng hợp đồng”
Theo quy định tại Điều 297 Luật Thương mại năm 2005, “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”. Như vậy, một phần trong định nghĩa về hình thức buộc thực hiện đúng hợp đồng thể hiện tính không khả thi, cụ thể là cụm từ “thực hiện đúng hợp đồng” là khó có thể thực hiện đặc biệt là trường hợp vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn. Chẳng hạn, trong hợp đồng có thỏa thuận thời gian giao hàng vào 8h sáng ngày 01/01/2016, thì khi đã có hành vi vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn thì hợp đồng đó không thể “thực hiện đúng hợp đồng” được nữa vì các bên không thể quay ngược thời gian vào thời điểm thỏa thuận trong hợp đồng để thực hiện đúng hợp đồng.

Do vậy, để bảo đảm tính khả thi đối với quy định về buộc thực hiện đúng hợp đồng, theo tác giả, cần xây dựng khái niệm về hình thức chế tài này theo hướng “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”.Nếu được như vậy, sẽ khắc phục được tình trạng quy định của Luật đặt ra nhưng thiếu tính khả thi, do không sát thực tế.

Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 299 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình”. Quy định như vậy đã làm cho chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trở thành vô giá trị,  bởi vì ngay cả trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài này thì cũng không chịu bất kì trách nhiệm bổ sung nào mà chỉ chịu các hình thức chế tài như phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại hoặc tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng. Quy định này đã biến hình thức chế tài “buộc thực hiện đúng hợp đồng” thành kẽ hở rất lớn để lợi dụng nhằm trì hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Theo tác giả, khi sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại năm 2005, cần quy định bổ sung các hình thức chế tài đã nêu ở trên để áp dụng khi bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.

Hai là, về hình thức chế tài phạt vi phạm hợp đồng
Theo quy định tại Điều 301 Luật Thương mại năm 2005: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”.

Theo quy định hiện hành của pháp luật nước ta, có hai văn bản pháp luật có giá trị điều chỉnh quan hệ về chế tài phạt vi phạm là Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005. Khoản 2 Điều 422 của BLDS năm 2005 về mức phạt vi phạm được áp dụng cho các quan hệ dân sự thì mức phạt vi phạm do các bên tự thỏa thuận. Điều này được hiểu là các bên có quyền tự do lựa chọn mức phạt vi phạm mà không hề bị khống chế bởi quy định của pháp luật. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận theo quy định của pháp luật dân sự. Tuy nhiên đó chỉ là những quan hệ mang tính chất dân sự theo nghĩa hẹp. Còn đối với những quan hệ dân sự theo nghĩa rộng, mà cụ thể là các quan hệ được Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh thì mức phạt vi phạm bị hạn chế ở mức 8%. Ở đây có sự khác biệt giữa hai văn bản khi cùng điều chỉnh một vấn đề. Vì thế, cần phân biệt được những quan hệ nào thuộc phạm vi điều chỉnh bởi BLDS năm 2005, những quan hệ nào được Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh để có thể áp dụng một cách chính xác. Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 thì hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Những quan hệ này khi có tranh chấp xảy ra và có điều khoản về phạt vi phạm thì sẽ áp dụng mức phạt vi phạm tối đa là 8%. Vậy quy định này của pháp luật có hợp lý hay không và có làm hạn chế quyền tự do thỏa thuận của các bên hay không?

Mặt khác, nếu trong hợp đồng hai bên thỏa thuận mức phạt vượt quá 8% giá trị hợp đồng, ví dụ: hai bên thỏa thuận, mức phạt 30%, 200%… thì sẽ xử lý như thế nào? Xoay quanh vấn đề này, có hai quan điểm như sau:

+ Quan điểm thứ nhất, việc thỏa thuận này là vô hiệu, vì vậy khi giải quyết tranh chấp về yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng, không chấp nhận yêu cầu này bởi vì xem như hai bên không có thỏa thuận.

+Quan điểm thứ hai cho rằng, việc thỏa thuận vượt quá 8% chỉ vô hiệu một phần đối với mức phạt vượt quá 8% còn điều khoản phạt vi phạm hợp đồng hoàn toàn có hiệu lực, trong trường hợp này có thể áp dụng mức tối đa 8% yêu cầu của bên bị vi phạm, phần vượt quá không được chấp nhận. Từ thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại, các Tòa án thường chấp nhận quan điểm thứ hai, nghĩa là nếu hai bên thỏa thuận vượt quá 8% thì sẽ áp dụng mức phạt từ 8% trở xuống để giải quyết yêu cầu bồi thường cho bên bị vi phạm. Người viết cho rằng, điều này hoàn toàn hợp lý, bởi vì, bản chất hợp đồng là ý chí của các bên, trong trường hợp này các bên hoàn toàn chấp nhận sẽ chịu phạt nếu vi phạm hợp đồng, còn việc thỏa thuận mức phạt vượt quá giá trị hợp đồng là do hai bên chưa hiểu biết đầy đủ quy định của Luật Thương mại năm 2005 chứ không có nghĩa là không có điều khoản về phạt vi phạm.

Về bản chất, mục đích của chế tài phạt vi phạm hợp đồng là để răn đe và phòng ngừa các bên thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng. Do vậy, việc các bên thỏa thuận một mức phạt như thế nào nhằm đạt được mục đích như trên ở một chừng mực nhất định là hợp lý. Tuy nhiên, khi ban hành Luật Thương mại, nhà làm luật còn quy định về mức trần phạt vi phạm (8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm) nhằm bảo vệ lợi ích của các bên trong hợp đồng (bên bị vi phạm) và bảo vệ lợi ích của Nhà nước và sự ổn định của nền kinh tế trước những hành vi vi phạm hợp đồng. Bởi lẽ, thông qua quy định về mức trần trong phạt vi phạm, Nhà nước sẽ kiểm soát được các thỏa thuận phạt “trá hình” nhằm thu lợi bất chính từ phía các chủ thể trực tiếp ký kết hợp đồng.

Trên cơ sở các nội dung đã phân tích, theo tác giả, quy định về mức phạt vi phạm hợp đồng khi sửa đổi Luật Thương mại năm 2005 sắp tới, cần được nghiên cứu tiếp cận một trong hai phương án sau:

+Phương án thứ nhất: Nếu nhà làm luật vẫn giữ mức trần phạt vi phạm hợp đồng, thì có thể quy định theo hướng “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vượt quá 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì phần vượt quá sẽ không có giá trị pháp lý”. Với cách quy định này, sẽ giải quyết được tình trạng tùy tiện trong việc áp dụng chế tài phạt vi phạm, đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước đối với các thỏa thuận phạt, vừa đảm bảo và tôn trọng sự tự do thỏa thuận, tự định đoạt của các bên khi giao kết hợp đồng trong giới hạn mức trần phạt cho phép của nhà nước.

+Phương án thứ hai: Bỏ quy định về mức trần phạt vi phạm hợp đồng như hiện nay. Bởi lẽ, nó sẽ làm hạn chế quyền tự do định đoạt, tự do thỏa thuận của các thương nhân trong hoạt động thương mại. Bên cạnh đó, mục đích của việc quy định chế tài phạt vi phạm là để phòng ngừa và răn đe các bên vi phạm hợp đồng. Thiết nghĩ, không ai có thể hiểu hơn các bên tham gia trong hợp đồng, nên về mức phạt ở mức độ như thế nào mới đủ sức phòng ngừa và răn đe các hành vi vi phạm, do tính phức tạp và đặc thù của mỗi lĩnh vực khác nhau trong quan hệ hợp đồng. Do vậy, việc quy định mức trần phạt vi phạm đã phần nào vô hiệu hóa những thỏa thuận đó của thương nhân, dẫn đến một hậu quả là mục đích của quy định về chế tài phạt không đạt được, hay nói cách khác, có những vụ việc trên thực tế nếu chỉ dừng lại giới hạn ở mức phạt không quá 8% thì các thương nhân sẵn sàng vi phạm hợp đồng nếu lợi ích kinh tế của việc vi phạm đó mang lại nhiều hơn nhiều so với khoản tiền không quá 8% giá trị hợp đồng bị vi phạm mà thương nhân phải chi trả cho bên bị vi phạm. Việc không quy định mức trần phạt vi phạm hợp đồng cũng phù hợp với cách quy định của BLDS năm 2005, thông qua đó, nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng của các thương nhân cũng như đảm bảo sự tự do thỏa thuận của họ trong hoạt động thương mại.

(còn tiếp…)

LS. LÊ VĂN SUA

Thích và chia sẻ bài viết này

Tin tức khác