Luật sư Hồ Ngọc Diệp - Đoàn Luật sư Thành Phố Hồ Chí Minh

Một số quy định về chế tài của Luật Thương mại năm 2005 cần được hoàn thiện (2)

28/11/2016, 15:34

Ba là, hình thức chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Theo quy định tại Điều 308 Luật Thương mại năm 2005: “Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng”. Có hai căn cứ để áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đó là: i) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng; ii) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

Khi chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng được áp dụng, hậu quả pháp lý đối với hợp đồng này là hợp đồng vẫn còn hiệu lực và bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu hành vi vi phạm đó gây thiệt hại cho bên bị vi phạm. Như vậy về bản chất, việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng và hợp đồng đó sẽ tiếp tục được thực hiện trong tương lai khi điều kiện áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt. Vấn đề đặt ra, sau khi áp dụng biện pháp này, thời điểm nào sẽ được coi là chấm dứt việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng? Căn cứ nào để một bên yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng đã bị tạm ngừng thực hiện? Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện do bên tạm ngừng tự động thực hiện hay theo yêu cầu của bên có hành vi vi phạm hợp đồng?

Tất cả những yếu tố này hiện nay đều chưa được tính đến trong Luật Thương mại hiện hành, gây khó khăn cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Để giải quyết sự bất cập này, theo tác giả, cần bổ sung quy định cụ thể về căn cứ, thời điểm chấm dứt áp dụng hình thức tạm ngừng thực hiện hợp đồng và nghĩa vụ của các bên khi căn cứ tạm ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt. Có như vậy mới đảm bảo quyền lợi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, tránh trường hợp lợi dụng việc áp dụng chế tài này để “chấm dứt” việc thực hiện các hợp đồng trên thực tế.

Bốn là, hậu quả pháp lý của hình thức huỷ bỏ hợp đồng. Theo quy định tại Điều 312 Luật Thương mại năm 2005, hủy bỏ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng (hủy bỏ toàn bộ) hoặc bãi bỏ một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực (hủy bỏ một phần).

Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng là hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp (khoản 1 Điều 314 Luật Thương mại). Như vậy về nguyên tắc, hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng giống như trong trường hợp hợp đồng bị vô hiệu, các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận từ việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, cách quy định này sinh ra một số bất cập với quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 314 Luật này. Mà theo đó, “2. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền”;  “3. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này”.

Quy định này, theo tác giả đã mâu thuẫn với khoản 1 Điều 314 Luật Thương mại năm 2005, khi quy định hợp đồng bị hủy bỏ thì không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, bởi xét trên các góc độ pháp lý sau đây:
+Việc cho phép các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng đã đi ngược lại với bản chất của hủy hợp đồng, bởi lẽ khi hợp đồng bị hủy “không có hiệu lực từ thời điểm giao kết” thì tất cả những phần hợp đồng đã thực hiện sẽ phải hoàn trả lại cho bên kia. Với quy định này, có lẽ pháp luật đã thừa nhận hiệu lực của hợp đồng bị hủy hơn là hủy những nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng. Do vậy, quy định này cần phải được sửa đổi theo hướng ghi nhận phần hợp đồng không bị hủy (đối với hợp đồng bị hủy một phần), đối với phần hợp đồng bị hủy, các bên phải hoàn trả lại những gì đã nhận cho nhau, đối với phần không bị hủy sẽ phải tiếp tục thực hiện theo những thỏa thuận trong hợp đồng.

+ Quy định “nếu các bên không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền” là không hợp lý, đôi khi lại là cách ghi nhận hiệu lực của hợp đồng bị hủy. Quy định này chỉ hợp lý khi lợi ích các bên nhận được là lợi ích vật chất dưới dạng hiện vật, nếu lợi ích mà các bên nhận được là lợi ích về mặt tinh thần hoặc đối tượng của hợp đồng là dịch vụ, thì việc bên được cung ứng dịch vụ hoặc nhận được lợi ích tinh thần phải trả lại tiền cho bên cung ứng dịch vụ chẳng khác gì việc trả tiền cho lợi ích mình nhận được từ một hợp đồng bị hủy (không còn giá trị đối với các bên). Bên cạnh đó, số tiền phải trả là bao nhiêu, nguyên tắc định giá thế nào? Theo giá thị trường vào thời điểm “hoàn trả” hay theo giá đã thỏa thuận trong hợp đồng cho những lợi ích đã nhận được cũng không được tính đến, điều này sẽ gây khó khăn cho các chủ thể cũng như các cơ quan giải quyết tranh chấp trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Chính vì vậy, cần phải làm rõ khái niệm “lợi ích” ở đây là gì, theo người viết “lợi ích” cần phải được hiểu là các lợi ích vật chất nhận được dưới dạng hiện vật, nhằm tránh trường hợp “tiếp tục thực hiện hợp đồng đã bị hủy” do bên thụ hưởng lợi ích tinh thần hoặc dịch vụ buộc phải trả lại bằng tiền. Vì lẽ đó, cần sửa đổi quy định này theo hướng “nếu các bên không thể hoàn trả bằng chính hiện vật đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền theo giá trị hiện vật tại thời điểm hoàn trả”.

Năm là, mối quan hệ giữa các loại chế tài trong thương mại
Mối quan hệ giữa các loại chế tài trong thương mại vẫn còn một số bất cập thể hiện trên các khía cạnh sau đây:

i). Về mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài buộc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 307 Luật Thương mại năm 2005, như sau:
“1. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.”

Với quy định này, nhà làm luật nhấn mạnh chế tài phạt vi phạm có thể áp dụng đồng thời với chế tài buộc bồi thường thiệt hại, hay nói cách khác, việc áp dụng chế tài phạt vi phạm không làm mất quyền áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, nội dung này đã được ghi nhận tại Điều 316 Luật này, đó là: “Một bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các chế tài khác”. Như vậy, theo quy định tại Điều 316 Luật Thương mại năm 2005, thì chế tài buộc bồi thường thiệt hại có thể áp dụng cùng một lúc với các chế tài khác bao gồm chế tài phạt vi phạm. Do đó, việc đặt ra một điều luật riêng để điều chỉnh mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại như trong Điều 307 Luật Thương mại hiện hành là không cần thiết. Không những thế, nội dung của Điều 307 Luật này lại thiếu hoàn chỉnh khi quá nhấn mạnh đến căn cứ áp dụng của điều khoản phạt vi phạm mà không đề cập đến căn cứ áp dụng của chế tài buộc bồi thường thiệt hại, nên dẫn đến những lúng túng và hiểu nhầm cho các thương nhân khi áp dụng. Để giải quyết tình trạng như đã nêu, theo tác giả nên loại bỏ quy định tại  Điều 307 Luật Thương mại năm 2005, khi sửa đổi.
ii). Về mối quan hệ giữa chế tài hủy hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng với các loại chế tài khác. Trong những quy định về mối quan hệ giữa chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng nằm rải rác tại các Điều 309, Điều 311 và Điều 314 Luật Thương mại năm 2005 và còn đề cập đến việc áp dụng ba loại chế tài trên không làm mất quyền áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Quy định như vậy là không hợp lý bởi hai lý do: Thứ nhất, những nội dung này đã được ghi nhận trong Điều 316 Luật Thương mại hiện hành; Thứ hai, nếu chỉ dừng lại ở quy định như vậy thì không bao hàm việc áp dụng ba loại chế tài này với chế tài phạt vi phạm, trong khi nếu có đủ căn cứ áp dụng thì việc áp dụng ba loại chế tài này với chế tài phạt là hoàn toàn hợp pháp và chính xác.

Do vậy, theo tác giả, để tránh tình trạng quy định chồng chéo và không bao hàm hết các mối quan hệ giữa các chế tài, thì cần thiết phải thực hiện hai bước: Trước hết là loại bỏ hết các quy định về mối quan hệ của các loại chế tài nằm rải rác trong các điều luật khác nhau và sau đó thiết kế một quy định chung về mối quan hệ của các loại chế tài trong thương mại theo hướng sau: “Các chế tài trong thương mại có thể được áp dụng đồng thời nếu có đủ căn cứ áp dụng theo quy định của luật này trừ việc áp dụng đồng thời các chế tài hủy hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và tạm ngừng thực hiện hợp đồng”

Sáu là, các nguyên tác cơ bản trong hoạt động thương mại mà Luật Thương mại năm 2005 quy định, hoặc đã được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, như nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận; nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng. Còn nguyên tắc áp dụng thói quen; nguyên tắc áp dụng tập quán; nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại (Điều 12, Điều 13 và Điều 15 Luật Thương mại năm 2005), về bản chất đó không là nguyên tắc.

Luật Thương mại năm 2005 và BLDS năm 2005 có nhiều quy định trùng nhau như hợp đồng mua bán hàng hóa (Luật Thương mại năm 2005; Chương II; từ Điều 24 đến Điều 62) và hợp đồng mua bán tài sản (BLDS năm 2005; Chương XVIII; từ Điều 428 đến Điều 449); hợp đồng đại diện cho thương nhân (Luật Thương mại năm 2005; Chương V; từ Điều 141 đến Điều 177) và hợp đồng ủy quyền (BLDS năm 2005; Chương XVIII; từ Điều 581 đến Điều 589);  hợp đồng cho thuê hàng hóa Luật Thương mại năm 2005; Chương Vi; từ Điều 269 đến Điều 283) và hợp đồng thuê tài sản (BLDS năm 2005; Chương XVIII; từ Điều 480 đến Điều 491); Hợp đồng gia công hàng hóa với hợp đồng gia công; … Mặt khác, nội dung quy định quảng cáo thương mại (từ Điều 102 đến Điều 140) trùng với nhiều quy định của Luật Quảng cáo năm 2012. Do vậy, khi sửa đổi Luật Thương mại năm 2005 sắp tới, người viết kiến nghị nên loại bỏ những quy định chồng chéo, trùng lắp với luật chuyên ngành khác.\

Một bất cập khác cũng cần phải nêu, đó là Điều 318 Luật Thương mại năm 2005 qui định, về thời hạn khiếu kiện, như sau:

“Trừ trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 237 của Luật này, thời hạn khiếu nại do các bên thỏa thuận, nếu các bên không có thoả thuận thì thời hạn khiếu nại được quy định như sau:

1. Ba tháng, kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về số lượng hàng hoá;

2. Sáu tháng, kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về chất lượng hàng hoá; trong trường hợp hàng hoá có bảo hành thì thời hạn khiếu nại là ba tháng, kể từ ngày hết thời hạn bảo hành;

3. Chín tháng, kể từ ngày bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc trong trường hợp có bảo hành thì kể từ ngày hết thời hạn bảo hành đối với khiếu nại về các vi phạm khác.”.

Trong khi đó các hợp đồng dân sự được điều chỉnh bởi BLDS năm 2005, kể cả BLDS năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017 sắp tới cũng không qui định thời hạn khiếu nại. Do vậy, nếu chiếu theo Điều 318 Luật Thương mại năm 2005, mà quá thời hạn trên sẽ mất quyền khởi kiện, điều này dẫn đến xung đột với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

LS. LÊ VĂN SUA

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP.

Thích và chia sẻ bài viết này

Tin tức khác