Luật sư Hồ Ngọc Diệp - Đoàn Luật sư Thành Phố Hồ Chí Minh

Vai trò của Thẩm phán đối với việc mở rộng tranh tụng trong các vụ án dân sự (kỳ 1)

03/08/2016, 21:22

Mặc dù bài viết này đã được các tác giả thực hiện trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 ra đời. Tuy nhiên, trong bối cảnh chúng ta đang đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, lấy hoạt động tranh tụng làm trọng tâm như hiện nay, bài viết vẫn là một tài liệu đáng để tham khảo. luatsuhongocdiep.vn xin giới thiệu lại bài viết này cùng bạn đọc.

I. CHỦ THỂ THAM GIA TRANH TỤNG TRONG CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ

1. Nhận thức về tranh tụng mở rộng tại Tòa án:

Theo từ điển Hán Việt thì tranh tụng có nghĩa là “cái lẽ, cãi nhau để tranh lấy phần phải”. Như vậy, từ điển Hán Việt chỉ giải thích theo ngữ nghĩa của từ tranh chấp, chứ không phải “tranh” theo một trình tự tố tụng.

Còn theo từ điển tiếng Việt thì tranh tụng là việc “yêu cầu xét xử việc người khác đã làm thiệt hại đến mình”. Do đó, tranh tụng chỉ đặt ra khi cá nhân, cơ quan, tồ chức cho rằng quyền lợi của họ hay của người khác bị xâm phạm và yêu cầu Tòa án giải quyết nhằm bảo vệ cho họ. Yêu cầu này được Tòa án chấp nhận giải quyết theo trình tự tố tụng pháp luật quy định, khi việc đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do đó, tranh tụng trong tố tụng dân sự diễn ra từ khi bắt đầu khởi kiện, Viện kiểm sát khởi tố vì lợi ích chung cho đến kết thúc giai đoạn tranh luận tại phiên tòa.

Các đương sự tham gia vào các giai đoạn này luôn đưa ra yêu cầu Tòa án xét xử theo hướng có lợi cho mình và đồng thời đưa ra lý lẽ để biện minh cho yêu cầu của mình đặt ra là đúng pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay có quan điểm cho rằng tố tụng của Việt Nam là tố tụng xét hỏi, do đó tranh tụng chỉ có trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa. Bởi lẽ, từ khi thụ lý đến khi mở phiên tòa các thẩm phán phải trực tiếp điều tra, thu thập chứng cứ, có nghĩa vụ chứng minh tính hợp pháp, có căn cứ về yêu cầu của các bên. Thực tế cho thấy, trước giai đoạn tranh luận, không có việc các bên đương sự đối đáp, tranh tụng trực tiếp với nhau, chỉ đến giai đoạn tranh luận thì mới xuất hiện sự tranh tụng, còn điều tra, xét hỏi tại phiên tòa thực chất là quá trình Tòa án tìm ra sự thật vụ án, chưa xuất hiện tranh tụng trong các giai đoạn này.

Chúng tôi cho rằng, cách hiểu về tranh tụng trong quan điểm này, chỉ coi sự đối đáp trực tiếp mới là tranh tụng sẽ không đầy đủ. Có lẽ cách hiểu đúng về thuật ngữ tranh tụng phải bao gồm cả đối đáp trực tiếp và cả sự “đối đáp” gián tiếp. Trong đó một yếu tố không thể thiếu để có được sự tranh tụng thực sự đó là việc các bên đương sự phải cung cấp chứng cứ, thông tin cho nhau, qua đó, các bên đưa ra lập luận, lý lẽ, chứng cứ được thể hiện bằng văn bản nhằm bác bỏ quan điểm phía bên kia. Do đó, dù Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự còn nhiều hạn chế nhưng các quy định của Pháp lệnh đã phần nào thể hiện sự kết hợp giữa tố tụng xét hỏi và tố tụng tranh tụng, còn dự thảo 12 Bộ luật tố tụng dân sự đã thể hiện một cách rõ nét sự kết hợp giữa tố tụng xét hỏi và tố tụng tranh tụng, vai trò của các bên đương sự trong tố tụng đã được đề cao rất nhiều, nó thể hiện ngay trong trách nhiệm của các bên đương sự trong quá trình tố tụng.

2. Chủ thể tham gia tranh tụng trong tố tụng dân sự:

Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì chủ thể tham gia tranh tụng trong tố tụng dân sự, bao gồm:

– Đương sự trong vụ án dân sự có thể là cá nhân, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được Viện kiểm sát khởi tố vụ án dân sự hoặc cá nhân, tổ chức khác có thẩm quyền do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.

Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện, người bị Viện kiểm sát khởi tố vụ án dân sự hoặc cá nhân, tổ chức khác có thẩm quyền do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.

– Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Những người sau đây có thể được chấp nhận làm người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự: Luật sư không bị cấm thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư; Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa bị kết án hoặc đã bị kết án nhưng đã được xóa án tích, không phải là cán bộ, công chức trong ngành Tòa án, ngành Kiểm sát, ngành Công an; Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự có thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền, lợi ích hợp pháp của những người đó không đối lập nhau.

– Các cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi chức năng của mình có quyền khởi kiện hoặc đề nghị Viện kiểm sát xem xét việc khởi tố vụ án trong những trường hợp theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

– Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể lao động.

– Viện kiểm sát nhân dân có quyền khởi tố vụ án trong những trường hợp theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình và đối với những vi phạm pháp luật liên quan đến quyền,

lợi ích hợp pháp của người lao động là người chưa thành niên, người tàn tật và các vi phạm pháp luật lao động nghiêm trọng khác.

– Người đại diện.

Người đại diện theo pháp luật được quy định trong Bộ luật dân sự là đại diện đương nhiên trong tố tụng dân sự, như: đại diện cho đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc đại diện cho cơ quan, tổ chức… Tuy nhiên, các trường hợp sau đây sẽ bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự: nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ án với người đại diện mà quyền, lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền, lợi ích hợp pháp của người được đại diện; nếu họ đang là đại diện đương nhiên trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác, mà quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền, lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án; cán bộ, công chức trong ngành Tòa án, ngành Kiểm sát, ngành Công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật.

Cá nhân, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác cũng là đại diện đương nhiên trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ.

Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự phải tuân theo quy định của Bộ luật dân sự.

Thực tiễn tùy từng vụ án mà các đối tượng có thể tham gia tranh tụng do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Họ cũng có thể tham gia từ khi thụ lý vụ án, nhưng cũng có thể tham gia vào những giai đoạn tố tụng khác nhau. Khi tham gia tranh tụng thực hiện quyền, nghĩa vụ được quy định trong tố tụng dân sự.

3. Sự khác nhau giữa tranh tụng trong tố tụng dân sự và tranh tụng trong tố tụng hình sự:

Tranh tụng trong tố tụng hình sự chỉ diễn ra trong các phiên tòa mà phần tranh tụng chủ yếu là ở phần tranh luận; tại đây giữa các bên đã đối đáp nhau một cách trực tiếp. Chủ thể tranh tụng trong tố tụng hình sự bao gồm: Viện kiểm sát và người bị hại, nguyên đơn dân sự yêu cầu bồi thường thiệt hại, đại diện cho bị hại, nguyên đơn dân sự…, luật sư của các bên và bị cáo.

Như vậy, trong tranh luận sẽ hình thành 2 tuyến chủ thể chủ yếu, đó là người buộc tội, còn một bên là người gỡ tội. Mặc dù bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội, nhưng bị cáo và những người thuộc tuyến chủ thể này có quyền chứng minh sự vô tội của mình, họ đưa ra các căn cứ, lý lẽ, lập luận bác bỏ sự buộc tội của phía bên kia. Về nguyên tắc thì các bên đều bình đẳng với nhau trong quá trình tranh tụng. Nhưng thực tế bên bị buộc tội khó có thể có được sự bình đẳng thực sự trong tranh tụng, vì chính họ có thể bị thiếu những điều kiện, phương tiện và khả năng để thực hiện được sự bình đẳng trong tranh tụng. Tranh tụng trong tố tụng hình sự chỉ diễn ra tại phiên tòa, còn tranh tụng tố tụng trong dân sự diễn ra kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án và giữa các bên trong quá trình tranh tụng hoàn toàn bình đẳng. Trong tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát là cơ quan đại diện quyền lực cho nhà nước, luôn luôn là một chủ thể phải tham gia tranh tụng với tư cách là người buộc tội, còn trong dân sự Viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức xã hội chỉ tham gia tranh tụng khi họ là người khởi kiện hoặc khởi tố vụ án. Đây có thể là những dấu hiệu cơ bản để phân biệt tranh tụng trong tố tụng hình sự với tranh tụng trong tố tụng dân sự.\

II. VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Tranh tụng là một hoạt động quan trọng trong tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng. Nó chỉ diễn ra trong hoạt động tư pháp. Tranh tụng trong tố tụng dân sự chính là hoạt động của chủ thể trong quá trình chứng minh về tính hợp pháp và có căn cứ của các yêu cầu mà họ đặt ra hoặc chứng minh về tính bất hợp pháp, thiếu căn cứ về các yêu cầu mà phía đương sự bên kia đưa ra.

Trong quá trình tranh tụng các bên đương sự sẽ đưa ra các chứng cứ, lý lẽ, những lập luận nhằm bảo vệ quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm của đối phương. Do đó, tất cả các hoạt động như trình bày các yêu cầu của mình trong đơn, các bản tự khai trong đó đưa ra các lý lẽ, chứng cứ, lập luận, yêu cầu, phản yêu cầu, cung cấp chứng cứ, bằng chứng hoặc sự đối chất qua các bên, quá trình trao đổi tài liệu chứng cứ cho nhau diễn ra trước khi mở phiên tòa, chính là quá trình các đương sự thực hiện sự tranh tụng. Trong suốt quá trình tố tụng đó, vai trò của thẩm phán là rất quan trọng, thậm chí có thể cho rằng họ có vai trò gần như quyết định đến chất lượng trong quá trình tranh tụng. Mặc dù thẩm phán không trực tiếp tham gia với tư cách là một chủ thể, hay là một bên trong quá trình tranh tụng nhưng với tư cách là người đại diện cho nhà nước, thực thi công lý, họ có vai trò là người trọng tài, là người hướng dẫn cho các bên đương sự trong việc thực hiện quyền tranh tụng đúng pháp luật.

Nếu việc tranh tụng đó diễn ra tại phiên tòa thì vai trò của thẩm phán được thể hiện một cách rõ nét đầy đủ nhất. Bởi vì cũng chính tại phiên tòa là nơi sẽ diễn ra đỉnh điểm của sự tranh tụng, nó hàm chứa đầy đủ các dấu hiệu, đặc điểm của việc tranh tụng và cũng tại giai đoạn này vai trò của thẩm phán trong tranh tụng cũng được thể hiện một cách nổi bật, thẩm phán là người điều khiển, dẫn dắt việc tranh tụng để việc tranh tụng diễn ra một cách có trật tự, đi đúng trọng tâm vào những vấn đề mấu chốt, những điểm còn mâu thuẫn, cần làm rõ của vụ kiện.

(còn tiếp…)

TƯỞNG DUY LƯỢNG & NGUYỄN VĂN CƯỜNG – Tòa Dân sự TAND Tối cao.

Thích và chia sẻ bài viết này

Tin tức khác

Theo Dõi Trên FACEBOOK

Theo Dõi Trên Google Plus

Thống Kê