Thủy Kính tiên sinh: Sự ẩn hiện huyền cơ trong Tam Quốc. Bài 2: Một kỳ nhân đầy bí ẩn
Những nguyên tắc ký kết và thực hiện hợp đồng trong pháp luật Pháp
1. Pháp luật thực định của Pháp: cấu trúc của pháp luật hợp đồng được quy định trong BLDS Pháp năm 1804 tại Điều 1107: “Mọi hợp đồng dù có hay không có tên gọi riêng đều phải tuân thủ các quy định chung tại Thiên này”. Đoạn 2 Điều này quy định: “Một số hợp đồng được quy định tại các Thiên dành cho từng loại hợp đồng đó”. Như vậy, ở đây có thể rút ra hai nhận xét:
Thứ nhất, là có sự phân biệt không chỉ riêng của Pháp mà bắt nguồn từ luật La Mã. Đó là sự phân biệt giữa hợp đồng có tên và hợp đồng không có tên, nghĩa là hợp đồng không được đặt tên cụ thể, ví dụ như hợp đồng theo một yêu cầu cụ thể của một bên hay của hai bên. Sự phân biệt này được thừa nhận trong BLDS nhưng đồng thời cũng mang tính tương đối do mọi loại hợp đồng đều được điều chỉnh bởi các quy định của luật chung.
Thứ hai, là có sự phân biệt giữa các quy định chung và quy định đặc thù (chuyên ngành). Các hợp đồng có tên gọi vừa phải tuân thủ các quy định chung vừa phải tuân thủ các quy định riêng. Tất nhiên, các quy định chuyên ngành sẽ được ưu tiên áp dụng khi có sự xung đột giữa quy định chung và quy định chuyên ngành. Đôi khi, quy định chuyên ngành chỉ nhắc lại quy định chung, nhưng nếu hai quy định trái nhau thì sẽ áp dụng quy định chuyên ngành. Cần bổ sung thêm rằng các quy định chuyên ngành rất phát triển. Ví dụ về mua bán, ngoài các quy định chung còn có các quy định đặc thù tùy thuộc vào loại hợp đồng, chẳng hạn như hợp đồng mua bán trên mạng, mua bán quốc tế, mua bán mất động sản… Các loại hợp đồng đó phải tuân thủ các quy định đặc thù riêng. Các vị có thể thấy điều này không làm thay đổi cấu trúc cơ bản của pháp luật hợp đồng.
Đối với chúng tôi, đây là cấu trúc rất hợp lý. Cấu trúc này đã tồn tại nhiều năm, cho phép bù đắp những khiếm khuyết bởi vì khi xây dựng pháp luật hợp đồng, rất khó để có thể bao quát được tất cả nên cấu trúc này cho phép luật chung có thể bù đắp trong trường hợp luật đặc thù không đầy đủ. Về mặt chính sách pháp luật thì chúng ta có thể có sự lựa chọn về chính sách đối với tất cả các loại hợp đồng. Theo tôi, điều đó cho thấy nỗ lực hợp lý hóa, một cấu trúc đảm bảo sự hợp lý, dễ dàng tiếp cận đối với những người không phải luật gia. Điều này có ý nghĩa với cả những nước thuộc hệ thống thông luật. Ví dụ như ở Mỹ đã có rất nhiều nỗ lực để hợp lý hóa pháp luật nhằm đưa ra những quy định chung về hợp đồng. Ở Mỹ có một văn bản không phải luật thực định mà do giới nghiên cứu đưa ra nhưng lại có giá trị rất cao đối với các thẩm phán.
Cấu trúc pháp luật hợp đồng của Pháp đã có những sự phát triển mà tôi sẽ giới thiệu với quý vị ngay sau đây :
Pháp luật hợp đồng không chỉ nằm trong BLDS mà ở Pháp, chúng tôi có khoảng 70 đến 80 bộ luật với những ngành luật khác nhau như du lịch, điện ảnh, tiêu dùng… Nói cách khác, hiện nay có những quy định rất khác nhau, tùy theo đối tượng sẽ ký kết hợp đồng hay theo lĩnh vực hoạt động.
Cấu trúc mới có thể sẽ là cấu trúc mà trong đó, BLDS sẽ được áp dụng giữa các cá nhân. Ví dụ, khi quý vị bán một chiếc ô tô thì BLDS sẽ được áp dụng. Nhưng trong quan hệ tiêu dùng thì sẽ có pháp luật về tiêu dùng và áp dụng Bộ luật Tiêu dùng, giữa các thương nhân thì áp dụng Bộ luật Thương mại, ngoài ra còn có Bộ luật Tài chính tiền tệ… Sự phát triển này đã làm giảm đi tầm quan trọng của BLDS. Ở đây xuất hiện một vấn đề: nếu chúng ta tiếp tục phát triển theo hướng này, sẽ dẫn đến nguy cơ biến BLDS thành một tác phẩm có giá trị về mặt trí tuệ, lý thuyết nhưng ít được áp dụng vì luôn luôn có một bộ luật khác được áp dụng. Lúc đó, BLDS sẽ trở thành một bộ luật thứ yếu, đặc biệt khi các bộ luật khác có quy định điều chỉnh. Theo tôi, đây là một nguy cơ rất lớn và đáng lưu ý. Những quy định cơ bản vẫn phải được giữ lại trong BLDS và không thể để chúng trở nên vô nghĩa.
Tôi đã giới thiệu với quý vị những phát triển của pháp luật Pháp cùng các nguy cơ kéo theo khi ban hành quá nhiều bộ luật chuyên ngành. Sau đây, tôi sẽ trình bày các quy định của BLDS về hợp đồng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng pháp luật hợp đồng của Pháp không chỉ nằm trong BLDS.
Những nguyên tắc cơ bản về ký kết và thực hiện hợp đồng gồm 4 nguyên tắc sau:
Nguyên tắc tự do hợp đồng
Như quý vị đã biết, khẩu hiệu của Pháp là Tự do – Bình đẳng – Bác ái, đây là những giá trị bắt nguồn từ cách mạng Pháp. Điều đầu tiên của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền cũng cho rằng: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. Như vậy, chúng ta bình đẳng về mặt pháp luật chứ không phải về thể chất, kinh tế. Và điều này được thể hiện, thừa nhận trong pháp luật hợp đồng của Pháp. Trong BLDS, tự do hợp đồng không được quy định cụ thể nhưng không ai nghi ngờ về hiệu lực pháp lý nhất định của nguyên tắc này. Các thẩm phán của Pháp thừa nhận tự do hợp đồng như một nguyên tắc. Các thẩm phán ở Tòa Phá án với rất nhiều quyền hạn đã thừa nhận nguyên tắc này, Tòa án hành chính tối cao của Pháp (Tham chính viện) cũng có quan điểm tương tự. Hội đồng Bảo hiến cũng coi tự do hợp đồng như một nguyên tắc mang tính hiến định. Tuy nhiên, sự tự do này không phải là tuyệt đối, không thể xâm phạm vào vì nếu không, sẽ không cần thiết phải ban hành một bộ luật. Nhà làm luật đưa ra những giới hạn của tự do hợp đồng và các thẩm phán phải đảm bảo rằng những giới hạn này phải có căn cứ và được kiểm soát, những giới hạn này phải là cần thiết.
Tự do hợp đồng là sự tự do giao kết hoặc không giao kết. Điều này ngày càng trở nên quan trọng vì hiện nay, việc giao kết hợp đồng tốn nhiều thời gian hơn so với trước đây, giai đoạn đàm phán thương lượng để giao kết hợp đồng kéo dài hơn. Vậy sau quá trình đàm phán, nếu hợp đồng không được ký kết thì sẽ dẫn đến hậu quả, chế tài gì? Về nguyên tắc thì không bắt buộc phải ký kết hợp đồng. Do đó ngay cả khi sự chấm dứt này là trái pháp luật, bên chịu thiệt hại chỉ có thể yêu cầu bồi thường chứ không thể bắt một bên ký kết hợp đồng trái ý chí của họ. Tự do hợp đồng còn là sự tự do lựa chọn bên đồng ký kết hợp đồng và sự tự do xác định nội dung hợp đồng, nghĩa là tự do lựa chọn một loại hợp đồng có tên gọi hay không có tên gọi, xác định các điều khoản, hiệu lực hợp đồng… Quyền tự do giao kết hoặc không giao kết có hệ quả đặc biệt.
Nguyên tắc thỏa thuận
Đây là kết quả của nguyên tắc tự do hợp đồng, BLDS cũng không có quy định cụ thể nhưng tất cả đều công nhận nguyên tắc này. Theo nguyên tắc thỏa thuận, hợp đồng chỉ được thiết lập khi có sự trao đổi và thỏa thuận giữa hai bên. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng nếu có ý chí thống nhất của hai bên thì một sự thỏa thuận, một hợp đồng được hình thành. Sau đó, hợp đồng thường phải được thể hiện dưới một hình thức. Tại Pháp, hợp đồng không chỉ được lập bằng văn bản bởi về nguyên tắc, hợp đồng là sự gặp gỡ ý chí của hai bên nên một khi có sự gặp gỡ này thì hợp đồng đã được giao kết. Tôi sẽ quay lại vấn đề này và chúng ta sẽ thấy rằng khi có sự thỏa thuận thì hợp đồng đã được hình thành.
Nguyên tắc tôn trọng trật tự công và thuần phong mỹ tục
Mặc dù chúng ta có quyền tự do nhưng không thể trái với trật tự công và thuần phong mỹ tục. Nguyên tắc này có nguồn gốc từ luật La Mã và sau đó, dựa vào ý tưởng của luật La Mã từ thời Trung cổ, các luật gia Pháp đã đưa ra Điều 6 BLDS về tôn trọng trật tự công và thuần phong mỹ tục. Người ta không thể cho phép tự do giao kết hợp đồng đến mức vi phạm trật tự công. Điều này thể hiện sự gắn kết xã hội, sự tự do giao kết hợp đồng phải bị hạn chế, người ta không thể giao kết hợp đồng để giết một người khác.
Mặc dù rất khó để đưa ra khái niệm trật tự công nhưng chúng ta có thể đưa ra các nguyên tắc chung. Không phải bộ luật nào cũng đề cập đến trật tự công, quy định về trật tự công theo Điều 6 BLDS Pháp giúp chúng ta phân biệt những quy phạm mang tính chất áp dụng bắt buộc không có ngoại lệ và những quy phạm bổ khuyết. Điều này rất quan trọng bởi trong pháp luật dân sự Pháp, có sự phân biệt giữa quy phạm bổ khuyết và quy phạm bắt buộc. Chúng ta sẽ dựa vào sự phân biệt này để đo lường, đánh giá tính tự do trong giao kết hợp đồng. Khi thực hiện nguyên tắc tự do hợp đồng, câu hỏi đặt ra cho chúng ta là áp dụng quy định của quy phạm bắt buộc hay quy phạm bổ khuyết. Ngay từ những bài học đầu, chúng tôi đã dạy cho sinh viên cách phân biệt những quy phạm bắt buộc và quy phạm bổ khuyết. Sự phân biệt này rất rõ ràng trong pháp luật của Pháp vì những luật liên quan đến hợp đồng đã đều được pháp điển hóa và các thẩm phán có thể nêu rõ. Như vậy, hai bên trước khi giao kết hợp đồng có thể biết rằng mình có quyền tự do đó hoặc không, hoặc có những ngoại lệ.
Nguyên tắc ngay tình
Nguyên tắc ngay tình nằm trong phần thực hiện hợp đồng và các án lệ đã bổ sung rằng nguyên tắc này cần được tôn trọng không chỉ trong quá trình thực hiện hợp đồng mà còn trong suốt quá trình hợp đồng. Ngay tình có thể là một nguyên tắc khá mơ hồ, trong nhiều năm không có ý nghĩa rõ ràng. Tuy nhiên trong khoảng 30 năm trở lại đây, chúng tôi sử dùng ngày càng nhiều nguyên tắc ngay tình. Nguyên tắc này tưởng rằng không có tính thực tiễn nhưng trong rất nhiều trường hợp nó rất hữu ích.
2. Những thay đổi tiến bộ gần đây
Những hạn chế ngày càng nhiều đối với nguyên tắc tự do hợp đồng
Tất cả những nguyên tắc mà tôi giới thiệu trên đây đều có những thay đổi : có ngày càng nhiều hạn chế với sự tự do hợp đồng, có những thay đổi về cả nội dung và hình thức. Sự tiến bộ về nội dung chủ yếu xuất phát từ việc xem xét, tính đến sự bất bình đẳng giữa các bên. Có những sự thay đổi tiến bộ đáng chú ý so với trước đây.
Thứ nhất, các thẩm phán Tòa án tối cao với ngày càng nhiều các quyền hạn có xu hướng sử dụng các điều luật để bảo vệ người yếu thế bởi trong một hợp đồng có thể có một bên yếu thế hơn. Tất nhiên, thông thường thẩm phán vẫn sử dụng những điều luật này nhưng ngày nay việc áp dụng chủ yếu nhằm bênh vực người yếu thế. Ví dụ, trên thực tế các thẩm phán có thể sử dụng các quy định về lừa dối hoặc diễn giải thế nào là ngay tình để bảo vệ người yếu thế. Ngoài ra, như tôi đã nói đến, các đạo luật của Pháp ngày càng chuyên biệt, đặc thù và dần dần có những quy định khác với BLDS. Trên thực tế, các quy định này có ý nghĩa thực tiễn cực kỳ quan trọng để hạn chế sự lợi dụng của bên mạnh hơn. Theo Giáo sư Mazeaud, đây là sự linh hoạt của pháp luật hợp đồng, theo nghĩa là nó tính đến sự bất bình đẳng giữa các bên. Các án lệ đã có các quy định tách rời BLDS.
Thứ hai, trong vài năm trở lại đây, chúng tôi rất chú trọng phục hồi yêu cầu về hình thức. Bởi đôi khi sẽ có nguy cơ là một bên lợi dụng những sai sót về hình thức để hủy bỏ hợp đồng. Đồng thời, yêu cầu về hình thức cũng tạo ra thuận lợi là giúp tăng cường ý thức của người giao kết hợp đồng. Ngày càng có nhiều luật yêu cầu hợp đồng phải được lập bằng văn bản công chứng hoặc đòi hỏi ghi chú pháp lý trong hợp đồng. Đôi khi còn có những quy định cao hơn là yêu cầu bên không soạn thảo hợp đồng phải viết tay các ghi chú pháp lý trong hợp đồng. Đối với các giao dịch trên Internet, cũng phải đánh máy lại các ghi chú pháp lý trong hợp đồng; đặc biệt trong hợp đồng mua bán hàng hóa, người bán phải ghi rõ.
Sự thay đổi của trật tự công và thuần phong mỹ tục
Trong pháp luật của Pháp thì khái niệm thuần phong mỹ tục gần như biến mất. Mặc dù trong BLDS vẫn có các quy định này nhưng không còn được thẩm phán sử dụng. Tòa phá án đã nhận định rằng những người đã kết hôn có quyền tự do cho tặng tài sản của mình cho người tình. Khi những vụ việc này được đưa lên Tòa phá án, Tòa phá án đã cho rằng đây là quan hệ ngoại tình và hợp đồng này không trái với khái niệm thuần phong mỹ tục. Trước đây có sự phân biệt: nếu một khoản tiền hay tài sản được tặng cho để chấm dứt mối quan hệ thì hợp đồng được chấp nhận nhưng nếu để tạo ra hay duy trì một quan hệ ngoại tình thì đó là trái với thuần phong mỹ tục. Như vậy đã có sự chuyển biến.
Cách đây 10 năm, việc người đã kết hôn cho tặng tài sản của mình cho người tình bị coi là trái với thuần phong mỹ tục nhưng giờ lại không bị coi là trái. Như vậy, hiện nay điều gì bị coi là trái thuần phong mỹ tục hay phải bị pháp luật cấm, ví dụ như mại dâm với trẻ vị thành niên thì rõ ràng là trái trật tự công. Có hai lý do khiến Tòa phá án xét xử như vậy : Thứ nhất là lý do xã hội học, xu hướng tự do hóa các hành vi ứng xử; pháp luật không thể đưa ra những đánh giá hành vi ứng xử cá nhân của con người. Lý do thứ hai là lý do kỹ thuật, người ta nhận định rằng khái niệm trật tự công đủ rộng, đủ trừu tuợng để bao quát cái hành vi đó, để làm vô hiệu giao dịch đó. Kết luận là pháp luật thực định của Pháp hiện nay không phân biệt giữa trái trật tự công và trái đạo đức. Như tôi đã nêu, về mặt pháp luật thì hợp đồng trái đạo đức vẫn có giá trị, do đó có thể sử dụng khái niệm trật tự công theo hướng như vậy.
Vào thế kỷ 20, tính đến sự đa dạng của các quy định, chúng tôi đã phân biệt trật tự công mang tính chỉ đạo và trật tự công mang tính bảo vệ. Điều này có nghĩa là từ những năm 20, 30, Nhà nước đã tham gia, can thiệp nhiều vào đời sống kinh tế, xã hội. Nhà nước có thể can thiệp bằng hai cách: bảo vệ lợi ích chung hoặc bảo vệ lợi ích của một bên (bên được suy đoán là bên yếu thế). Lợi ích của sự phân biệt này là cho biết ai có quyền viện dẫn sự vi phạm trật tự công. Liệu có phải chỉ bên được bảo vệ mới có quyền viện dẫn hay là thẩm phán cũng có thể tự mình viện dẫn? Liệu thẩm phán có thể tự mình viễn dẫn khi không có yêu cầu của một trong các bên? Hoặc bất cứ người nào có lợi ích liên quan đều có thể viện dẫn?.
Chẳng hạn ở Pháp, có những quy định chống lạm dụng trong mối quan hệ giữa nhà cung cấp dịch vụ và khách hàng (người tiêu dùng là bên yếu thế). Người tiêu dùng có thể viện dẫn và đề nghị làm vô hiệu hợp đồng theo luật bảo vệ người tiêu dùng. Một doanh nghiệp tuân thủ pháp luật có thể viện dẫn những quy định chống lạm dụng để kiện doanh nghiệp cạnh tranh khác được không? Nhiều thẩm phán cho rằng đây là quan hệ giữa hai doanh nghiệp mà theo luật bảo vệ người tiêu dùng, chỉ có những người tiêu dùng mới có quyền viện dẫn vì họ ở thế yếu. Nhưng để thị trường phát triển tốt, người ta không chỉ bảo vệ người tiêu dùng mà còn phải bảo vệ những tác nhân khác tham gia vào thị trường. Do đó, doanh nghiệp B có quyền kiện doanh nghiệp A vì A đã vi phạm trật tự công và ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng, thị trường.
Chúng ta không thể không đưa khái niệm trật tự công vào luật nhưng sau khi đã đưa vào luật thì phát sinh vấn đề là tuy trật tự công là một quy phạm bắt buộc nhưng quy phạm bắt buộc cũng không thể tuyệt đối, vậy liệu chúng ta có thể từ chối những quyền được thừa nhận trong trật tự công không? Ví dụ, nếu tôi có các quyền về tài sản, tôi biết rằng tôi có những quyền đó và tôi có thể từ bỏ chúng. Vấn đề này thể hiện sự phức tạp của khái niệm trật tự công. Trong vài năm trở lại đây, pháp luật của Pháp đã có những quy định về từ bỏ quyền từ trước khi có quyền đó.
Ví dụ như về phần thừa kế, từ vài năm nay ở Pháp, người ta có quyền từ chối, từ bỏ quyền thừa kế, đặc biệt là những người thừa hưởng thừa kế trong khi theo quy định của trật tự công thì phần thừa kế là bắt buộc. Mặc dù người ta không nói rằng phần thừa kế không thuộc trật tự công nhưng hiện nay người ta thừa nhận quyền từ bỏ phần thừa kế. Một ví dụ khác là quyền phụ mẫu, họ tên của dòng họ trong một gia đình. Cho đến gần đây người ta vẫn cho rằng thừa hưởng họ của cha là một điều rất đúng theo trật tự công hoặc là người vợ theo tên chồng là trật tự công. Tuy nhiên, trên thực tế người vợ vẫn có quyền chối bỏ mang họ chồng, thậm chí con có thể không mang họ cha. Như vậy có thể thấy là việc thừa hưởng họ của cha vẫn nằm trong trật tự công, không bị xóa bỏ khỏi luật nhưng khi áp dụng, người ta thấy hoàn toàn có thể từ chối nên đó được coi là những ngoại lệ.
Ở Tòa án Nhân quyền châu Âu, đã có những án lệ mà trong đó phát triển khái niệm về trật tự công. Khái niệm này có thể ảnh hưởng đến khái niệm về trật tự công của Pháp bởi Tòa án này có những ý tưởng, triết lý rất khác. Theo họ, mỗi người đều có quyền của mình và các quyền lợi này chắc chắn sẽ có xung đột; phải tránh các xung đột đó nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo các quyền của mỗi cá nhân. Theo pháp luật của
Pháp thì chế định về hợp đồng đưa ra các hạn chế theo mục đích chung là đảm bảo quyền lợi xã hội. Tuy nhiên người ta cũng có thể cho rằng sự hạn chế này là vi phạm quyền cá nhân. Như vậy một hạn chế nếu theo luật của Pháp có thể là không vi phạm nhưng nếu đưa lên Tòa án Nhân quyền châu Âu thì lại bi coi là vi phạm quyền con người.
Nguyên tắc ngay tình
Liên quan đến khái niệm ngay tình, Tòa án Tư pháp tối cao đã đặt ra nghĩa vụ giao kết hợp đồng ngay tình mặc dù không được quy định trong luật. Các bên phải ngay tình ngay cả khi chỉ đàm phán thương lượng.
Đây là sự phát triển cơ bản liên quan đến vấn đề này. Các vấn đề nêu trên đều đã có sự phát triển. Hiện nay ở Pháp đang có ý kiến sửa đổi BLDS và rất nhiều tranh luận về những nguyên tắc lớn cần phải sửa đổi liên quan đến quá trình hình thành hợp đồng. Sau đây tôi sẽ trình bày về các thay đổi dự kiến có thể xảy ra trong tương lai.
3. Những thay đổi tiến bộ dự kiến
Chúng ta đã có các nguyên tắc, đây là một lợi thế lớn bởi vì đưa ra các nguyên tắc là cách thức để chúng ta lựa chọn các chính sách pháp luật. Ý nghĩa của các nguyên tắc cơ bản luôn được khẳng định.
Trong những sửa đổi, cải cách chúng tôi đang nghiên cứu, có những cải cách chỉ mang tính hình thức. Chẳng hạn, tự do hợp đồng là nguyên tắc đã được thừa nhận và khi sửa đổi, chúng tôi sẽ đưa vào BLDS, đây là điều mà Việt Nam đã làm. Tương tự, hợp đồng được thực hiện một cách ngay tình thực chất không phải là tiến triển về nội dung mà chỉ là về hình thức.
Về mặt nội dung, chúng tôi đang dự kiến một số thay đổi như sau:
Đưa vào BLDS các loại hợp đồng gia nhập
Khái niệm hợp đồng gia nhập đã tồn tại ở Pháp từ lâu nhưng chúng tôi vẫn do dự không đưa vào Bộ luật. Do đã có những quy định pháp luật để chống lại sự lạm dụng của cá nhân, tổ chức kinh doanh trong hợp đồng gia nhập, do đó chúng tôi chưa thấy được ý nghĩa của việc đưa khái niệm này vào BLDS. Hạn chế của việc thừa nhận hợp đồng gia nhập là có thể có những cuộc đàm phán giả tạo mà trong đó, người ta chỉ đàm phán một hoặc hai điểm nhỏ để chứng minh là hợp đồng đã được đàm phán nhằm tránh bị áp dụng quy định của hợp đồng gia nhập. Do đó tại Pháp, chúng tôi vẫn do dự đối với việc pháp điển hóa hợp đồng gia nhập vào BLDS mặc dù đó là một khái niệm mà chúng tôi biết khá rõ.
Nguyên tắc về tính công bằng của hợp đồng
Liệu có cần đưa nguyên tắc về tính công bằng vào BLDS, và quy định rằng hợp đồng chỉ có giá trị khi nó đúng đắn, công bằng ? Đa số các học giả của Pháp không ủng hộ nguyên tắc này vì đây là nguyên tắc rất mơ hồ và trừu tượng. Khái niệm công bằng, công lý mang nhiều ý nghĩa khác nhau, có nhiều loại công lý và công bằng, chẳng hạn như công lý trong phân phối, công bằng giao hoán v.v… nên khó có thể xác định nội hàm của khái niệm này. Ngay cả khi đã xác định được thì việc áp dụng nguyên tắc trong thực tiễn cũng phụ thuộc rất nhiều vào thẩm phán. Tại Pháp, chúng tôi đã rút ra nhiều bài học không hay trong thời kỳ trước đây, khi thẩm phán được quyết định thế nào là công bằng, công lý. Một thành quả của cuộc cách mạng Pháp là việc thẩm phán bắt buộc phải xét xử theo pháp luật, căn cứ vào pháp luật. Như vậy, do tính trừu tượng và các rủi ro mà nguyên tắc này có thể gây ra, chúng tôi rất do dự trong việc công nhận nguyên tắc này và không đưa ra quy định hợp đồng chỉ có hiệu lực bắt buộc khi nó đảm bảo công bằng công lý, ngay cả trong các dự thảo sửa đổi luật.
Tính hữu ích
Liệu hợp đồng có phải tuân thủ tính hữu ích? Chúng tôi đã tranh cãi khá nhiều về vấn đề này, bởi trong pháp luật của Pháp, mục đích của hợp đồng cho phép kiểm tra lợi ích của các bên trong hợp đồng. Như vậy chúng tôi đã có khái niệm mục đích của hợp đồng. Khi soạn thảo luật luôn phải tránh sự lặp lại nên giải pháp là không thừa nhận nguyên tắc là hợp đồng chỉ có hiệu lực khi nó có ích. Nếu trong pháp luật của Việt Nam chưa có quy định để kiểm tra mục đích của hợp đồng, quý vị có thể sẽ quan tâm đến nguyên tắc về tính hữu ích.
Nguyên tắc về tính tương xứng
Ở Pháp đã có vài đạo luật xử lý sự mất cân đối trong thỏa thuận, giao dịch. Người Pháp rất giỏi trong việc khái quát hóa, thông qua vài vụ việc cụ thể, chúng tôi đã khái quát và rút ra nguyên tắc về tính tương xứng, có nghĩa là các nghĩa vụ trao đổi tương ứng giữa các bên phải tương xứng với nhau. Nguyên tắc này không thuyết phục được các nhà cải cách bởi vấn đề đặt ra là việc xử lý một hành vi lạm dụng, mất cân đối và yêu cầu đảm bảo tính tương xứng là hai phạm trù khác nhau, cũng giống như cái tốt không phải là sự đảo ngược của cái xấu. Rất khó để biết được thế nào là tương xứng, cũng giống như nhận xét thứ hai tôi vừa nêu. Vì thế, chúng tôi không đưa nguyên tắc này vào trong Bộ luật ; thay vào đó, các dự thảo sửa đổi dựa vào nguyên tắc tự do hợp đồng, nghĩa là các bên tự quyết định về tính tương xứng giữa nghĩa vụ của các bên và hành vi lạm dụng sẽ bị xử lý theo các quy định về điều khoản lạm dụng.
Nguyên tắc an toàn pháp lý
Liệu có nên đưa vào BLDS nguyên tắc an toàn pháp lý hay không ? Đây là một nguyên tắc cơ bản, đã tồn tại từ rất lâu, dưới những khái niệm như là nguyên tắc không hồi tố của các đạo luật hay các quyết định hành chính. Nguyên tắc này thể hiện chất lượng, tính ổn định của pháp luật và được Tham chính viện, Hội đồng Bảo hiến và Tòa án nhân quyền châu Âu thừa nhận. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng và đã được các thẩm phán công nhận nhưng liên quan đến phần hợp đồng thì không nên đưa vào vì nguyên tắc này không chỉ dành cho các bên giao kết hợp đồng, các đương sự. An toàn pháp lý là nguyên tắc cơ bản, quan trọng đối với tất cả mọi người, không chỉ các bên của hợp đồng, mọi người đều phải được thụ hưởng sự an toàn pháp lý nên không thể chỉ quy định riêng cho phần hợp đồng .
Nguyên tắc nhất quán gắn kết
Ở đây có sự ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ. Đó là nguyên tắc về sự mong đợi hợp lý khá phổ biến, thể hiện thông qua việc cấm một bên hành động trái với những gì mình đã nói ra mà gây thiệt hại cho bên kia. Liệu có nên đưa nguyên tắc nhất quán vào BLDS để xử lý những hành vi này? Trong tố tụng dân sự, Tòa Phá án đã thừa nhận nguyên tắc này, nghĩa là trong quá trình tố tụng, người ta không thể làm trái những gì mình đã nói một cách không chính đáng và gây hại cho người khác. Tuy nhiên, trong lĩnh vực luật hợp đồng thì Tòa Phá án chưa công nhận nguyên tắc này.
Dự thảo sửa đổi của Giáo sư Terré đã đề nghị đưa nguyên tắc nhất quán gắn kết vào BLDS. Tôi không chắc chắn rằng pháp luật Pháp sẽ sửa đổi theo hướng này vì chúng tôi đã có các nguyên tắc giúp đạt được các mục đích, kết quả tương tự nguyên tắc nhất quán như nguyên tắc ngay tình, chống lạm dụng… Do đó, tôi nghĩ rằng không cần bổ sung thêm nguyên tắc mới. Và tôi xin trích dẫn một câu trong cuốn « Tinh thần pháp luật » của Montesquieu: “Không cần có những đạo luật vô ích vì nó làm suy yếu đi những luật cần thiết”. Đây là một điều hết sức quan trọng, bởi vì người ta sẽ tìm ra sự mâu thuẫn giữa hai đạo luật quy định trùng nhau. Nếu chỉ có một đạo luật quy định một cách rõ ràng thì đạo luật này sẽ không bị làm suy yếu đi bởi những quy định trùng lặp vô ích. Đối với Việt Nam, một nước đang trong quá trình học hỏi kinh nghiệm của nhiều nước khác nhau thì theo tôi, nên lựa chọn một quy phạm, một hệ thống để đảm bảo tính nhất quán của hệ thống pháp luật. Tất nhiên nếu cần đưa ra thêm quy định thì đó phải là một quy định khác, chứ không phải là quy định để nhắc lại một quy định đã tồn tại.
Nguyên tắc về trung thực và hợp tác
Theo tôi, nguyên tắc này gắn liền với nguyên tắc ngay tình vì khi đã quy định rằng các bên phải ngay tình thì không cần thiết phải quy định thêm rằng các bên phải có sự trung thực và hợp tác. Hơn nữa, sự hợp tác chỉ có thể áp dụng trong một số loại hợp đồng chứ không phải tất cả, bởi vậy không thể đưa ra thành một nguyên tắc chung. Chẳng hạn trong hợp đồng nhượng quyền thương mại thì có yêu cầu về tính hợp tác, còn trong các hợp đồng xảy ra nhanh, mang tính thời điểm thì thường không có yêu cầu này.
Hợp đồng phải tuân theo các quyền cơ bản
Tại Pháp chúng tôi phải tuân thủ các quy định của Tòa án Nhân quyền châu Âu và Công ước châu Âu về nhân quyền. Một số ý kiến cho rằng hợp đồng cần phải tuân theo các quyền cơ bản bởi tại Pháp hiện đang có xu hướng mới mà theo đó, các quyền con người chính là hướng phát triển, tương lai của pháp luật, bao gồm cả pháp luật dân sự. Nhưng theo tôi, các quyền cơ bản, đặc biệt là các quyền con người, phần lớn thuộc lĩnh vực trật tự công, bắt buộc tuân thủ mà chúng ta đã có một nguyên tắc về tuân thủ, không đi ngược lại các quy định, đạo luật mang tính trật tự công. Do vậy, không cần thiết phải quy định thêm việc tuân thủ các quyền cơ bản. Theo Điều 6 BLDS Pháp, «các bên không được thỏa thuận những điều trái với các quy định liên quan đến trật tự công», quy định như vậy đã đầy đủ để bao quát những bước phát triển, những xu hướng mới, không cần thiết phải bổ sung nguyên tắc tuân thủ các quyền cơ bản.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Đây cũng là một vấn đề gây tranh luận bởi trên thực tế có sự phân biệt đối xử chính đáng. Do đó, người ta phải rất thận trọng khi đưa ra quy định về nguyên tắc phân biệt đối xử. Ví dụ A đã ký hợp đồng với một số điều kiện với B nhưng A từ chối ký một hợp đồng tương tự trong cùng một điều kiện với C vì họ không tin tưởng C bằng B. Với B, người ta đã có quan hệ làm ăn lâu dài, hoặc có thể là B sẽ phát triển rất mạnh trong tương lai, vậy đã có sự khác nhau giữa những người cùng ký kết hợp đồng thì sự phân biệt này là chính đáng. Bên cạnh đó còn có sự phân biệt đối xử không chính đáng, chẳng hạn như từ chối không cho một người thuê nhà vì lý do tôn giáo, về xu hướng tình dục, về quốc tịch v.v… Tuy nhiên, những sự phân biệt đối xử này đều đã bị cấm theo các quy định mang tính trật tự công nên không cần thiết phải quy định thêm nguyên tắc không phân biệt đối xử. Hơn nữa khi chúng ta đưa ra nguyên tắc về không phân biệt đối xử bằng cách nêu ra các trường hợp nhằm trình bày rõ nội dung của nguyên tắc, chúng ta có thể sẽ quên các trường hợp khác. Chẳng hạn, người ta sẽ không quên quy định trường hợp của những người tàn tật nhưng đối với phụ nữ mang thai, người độc thân, những người ốm thì có quy định về không phân biệt đối xử không ? Ốm như thế nào thì mới có quy định về không phân biệt đối xử ? Rất khó để xác định thế nào là chính đáng và không chính đáng. Ngoài ra, những quy định về không phân biệt đối xử có thể đã nằm trong luật hình sự. Vậy câu hỏi đặt ra là chúng ta có nên đưa những trường hợp cụ thể như thế vào BLDS hay không ? Ví dụ, có nên đưa vào trường hợp phân biệt đối xử vì lí do xu hướng tình dục hay không, bởi đây là một vấn đề thuộc lĩnh vực dân sự ? Quy định cấm phân biệt đối xử trong kinh doanh thương mại đã bị xóa bỏ năm 2008. Và chúng tôi đang mở cửa thị trường, có những phân biệt đối xử trước kia không chính đáng đã trở thành chính đáng để phát triển thị trường.
GS. YVES MARIE LATHIER – Đại học Cergy – Pontoise, Cộng hòa Pháp
SOURCE: CIVILLAWINFOR TỔNG HỢP THEO KỶ YẾU TỌA ĐÀM VỀ SỬA ĐỔI BỘ LUẬT DÂN SỰ (PHẦN HỢP ĐỒNG) TẠI NHÀ PHÁP LUẬT VIỆT – PHÁP, HÀ NỘI NGÀY 14-15/6/2012.