Luật sư Hồ Ngọc Diệp - Đoàn Luật sư Thành Phố Hồ Chí Minh

Sổ tay hướng dẫn Thẩm phán và Thư ký Toà án tại Hoa Kỳ trong soạn thảo văn bản tố tụng (6)

09/11/2016, 16:04

PHẦN THỨ 6. Phản đối, nhất trí và viết cùng các thẩm phán: Bản ý kiến phúc thẩm thể hiện quyết định tập thể của một số thẩm phán. Thẩm phán là người viết bản ý kiến đó phải tính đến suy nghĩ của các thẩm phán khác trong hội đồng xét xử hoặc tại toà toàn thể (en banc) và phải đưa suy nghĩ của cả nhóm vào trong phần cơ sở của bản ý kiến đó. Đôi khi, một số thẩm phán tham gia vào việc chuẩn bị một bản ý kiến. Ví dụ, khi bản ý kiến được viết cùng nhau, hoặc khi các thẩm phán bình luận và có ý kiến về một văn bản mà một thẩm phán là người được giao viết bản ý kiến đó. phần này sẽ trình bày một số những cân nhắc giữa các đồng nghiệp khi viết bản ý kiến chung.

Biên bản ý kiến chung

Tại một số toà khu vực, mức độ phức tạp và số lượng vấn đề liên quan trong một vụ việc dẫn đến phải có bản ý kiến chung. Ý kiến chung được coi là ý kiến trước toà (per curiam). Tuy nhiên, đôi khi vụ việc liên quan tới từng phần khác nhau trong ý kiến chung đó lại được nêu tên rõ ràng. Ví dụ, khi xem xét các hồ sơ hành chính dài và mang tính kỹ thuật của, Toà Khu vực D.C, thường đưa ra các bản ý kiến đó như: Xin xem một số ví dụ tại National Wildlife Federation v. Hodel, 839 F.2d 694 (Toà khu vực D.C. 1988) và Ohio v. U.S. Department of Interior, 880 F.2d 432 (Toà khu vực D.C. 1989). Và Chemical Manuracturers Association v. Environmental Protection Agency, 870 F. 2d 177 (Toà khu vực số 5. 1989).

Khi hội đồng xét xử quyết định đưa ra bản ý kiến chung, cần có kế hoạch và phối hợp thỏa đáng giữa các thẩm phán và thư ký tòa (law clerk) để bảo đảm rằng bản ý kiến là có thể đọc được, mạch lạc và chặt chẽ. Có thể cần tổ chức một hội thảo phù hợp sau giai đoạn thảo luận để bàn về việc hoàn thiện bản ý kiến, trong đó cần đề cập tới mối quan hệ giữa các phần ý kiến với nhau, các giải định chung hoặc những khẳng định dựa vào tình tiết của vụ việc. Trình tự các phần có thể cần phải thiết kế nhằm bảo đảm dễ hiểu và tránh lặp lại các tình tiết cơ bản cũng như lặp lại các phân tích pháp lý.

Nhìn chung, một thẩm phán của hội đồng xét xử phải chịu trách nhiệm điều phối và gửi các bản tóm tắt và sơ lược của các phần theo dự định trước khi tất cả bắt đầu viết. Một thẩm phán, thường là thẩm phán điều phối, cũng sẽ có trách nhiệm viết phần lời nói đầu và phần kết luận, trong đó có bao quát mọi phần trong bản ý kiến đó. Phần lời nói đầu thường là tóm tắt và thường là tuyên bố về việc khiếu kiện đó được đưa ra toà xét xử. Các chi tiết và các tình tiết của vụ việc cần được trình bày trong các phần cụ thể sau đó của văn bản.

Sau khi những người được giao nhiệm vụ hoàn thành phần dự thảo của mình thì thẩm phán điều phối sẽ có trách nhiệm lắp ghép, xem xét điều chỉnh có tính kỹ thuật (không thay đổi nội dung) nhằm tránh sự chồng chéo hoặc tránh các khác biệt về văn phong trong toàn bộ văn bản.

Với các vụ việc phức tạp hơn và tốn nhiều thời gian hơn, toà án có thể gia tăng việc sử dụng bản ý kiến chung để tránh chậm trễ và lệ thuộc vào một thẩm phán. Do đó,nếu có kế hoạch một cách khoa học, thì cách làm này cần áp dụng vì nó vừa tiết kiệm thời gian và vẫn duy trì được chất lượng đối với loại văn bản này.

Bình luận về một dự thảo do một thẩm phán khác viết

Các thẩm phán sẽ gửi bản thảo ý kiến cho các thẩm phán khác trong hội đồng xét xử hay toàn bộ các thẩm phán của toà để xin ý kiến nhận xét nhằm bảo đảm rằng bản ý kiến đã có nhận xét của đại đa số thẩm phán. Khi nhận xét về bản ý kiến viết bởi một thẩm phán khác, thì nên nhận xét vào nội dung của bản ý kiến, chứ không nên nhận xét về văn phong. Khi đó, để xác định rạch ròi giữa văn hong và nội dung, thì một bình luận là phù hợp nếu vấn đề đang nói đến là tiếng nói của tòa án. Do đó nội dung của nhận xét là thông điệp của tòa án mà không đại diện cho quan điểm của các cá nhân.

Bản ý kiến phản đối

Bản ý kiến phản đối có một số mục đích khác nhau. Chúng có thể giúp toàn bộ thẩm phán (en banc) có cơ hội để rà soát một lần hoặc xem xét lại vụ việc theo lệnh toà cấp trên hoặc chuẩn bị kỹ hơn nữa để xem xét lại ý kiến của mình. Việc làm này có thể có tác động tới công tác lập pháp để chỉnh sửa những bất cập trong quy định của pháp luật. Các ý kiến phản đối cũng có tác dụng tốt tới các thẩm phán khác cũng như đến luật sư nhằm hạn chế của việc ra quyết định thiếu cân nhắc xảy ra trong tương lai. Theo cách này, ý kiến phản đối có thể sẽ rất hữu ích trong việc đưa ra những thông tin quan trọng đến những người đọc đồng thời giúp cho việc hoàn thiện pháp luật.

Ý kiến phản đối luôn được viết một cách chuẩn mực. Bởi vì một văn bản ý kiến phản đối được viết một cách khoa trương hay giáo điều có thể dẫn đến bất hoà và gây cảm giác không tốt đối với toà án. Điều này có thể làm giảm hiệu lực của bản ý kiến và làm ảnh hưởng uy tín của cả toà án với tư cách là một thể chế. Có nên thể hiện phản đối hay không? câu trả lời có thể phụ thuộc vào bản chất của vụ việc và nguyên tắc đang xét đến. Việc phản đối thường không nên được đưa ra khi nguyên tắc đó đã được giải quyết và quyết định đó có ít tầm quan trọng đối với các vụ việc khác, mà chỉ áp dụng với vụ việc cụ thể đó. Các vụ việc có đề cập tới những nguyên tắc pháp lý mới xuất hiện hoặc những giải thích pháp luật trong những lĩnh vực sẽ tác động đến các hoạt động tương lai của luật sư, công chúng và của chính phủ thường sẽ xứng đáng để phản đối hơn là các vụ việc có phạm vi áp dụng hạn hẹp. Như một thẩm phán đã từng nói: vấn đề phải quan trọng đủ để “khuấy động sự quan tâm” của thẩm phán nhằm hoàn thiện pháp luật hơn nữa, chứ không phải là để trút ra những cảm xúc cá nhân. Các thẩm phán khi cân nhắc có nên đưa ra ý kiến phản đối hay không, thì cần tự hỏi mình liệu những lợi ích mà mình đạt được có cao hơn cái giá có thể phải trả hay không?

Nếu một thẩm phán cho rằng viết bản phản đối sẽ hữu ích, thì nên viết một cách cẩn trọng và có trách nhiệm như là một bản ý kiến của tòa án. Lý lẽ lập luận nên tập trung vào những nguyên tắc quan trọng và phải phân biệt rõ giữa cơ sở của người phản đối và cơ sở của đại đa số. Tuy nhiên, đây là một công cụ để nêu ra những điểm khác biệt, bất đồng một cách hữu hiệu và mạnh mẽ, đồng thời đây cũng là một công cụ để tham gia tranh luận hoặc biện hộ. Một bản ý kiến phản đối không nên chỉ đơn thuần là chỉ chỉ trích ý kiến của đại đa số hoặc của một tác giả. Không nên dùng ngôn ngữ xúc phạm và giọng điệu bề trên để chỉ trích, mặc dù một số thẩm phán cho rằng đôi khi sự xúc phạm hoặc căm phẫn có chừng mực cũng là cần thiết.

Phụ lục E có đưa ra nhiều ví dụ về những bản ý kiến phản đối với văn phong chừng mực và hợp lý khi thể hiện những ý kiến trái với ý kiến của đại đa số.

Ý kiến nhất trí (Ý kiến ngắn gọn)

Hầu hết những điều phải cân nhắc trong các ý kiến phản đối cũng áp dụng đối với những ý kiến nhất trí. Nhất trí là phù hợp khi nhằm định nghĩa chính xác hơn về phạm vi của một bản ý kiến hoặc để thông báo cho các bên và người đọc về những điều mà người viết cho là quan trọng. Một bản ý kiến nhất trí không nên được viết chỉ để bổ sung một quan điểm hoặc một tuyên bố cá nhân mà ý kiến đó còn phải có giá trị giáo dục. Câu hỏi nên đặt ra cho người viết là: Tôi có đang viết cho tôi hay cho tòa?

Các thẩm phán nên đưa vào trong bản ý kiến nhất trí của mình một phần trình bày về lý do tại sao họ lại nhất trí cụ thể như vậy. Mục đích không phải là trình bày một ý kiến thay thế của tòa án, mà là để chỉ ra điểm xuất phát của ý kiến cũng như phạm vi ý kiến. Bản nhất trí không nên xào xáo lại những tình tiết và các nguyên tắc pháp lý mà đại đa số đã dùng để đưa ra quyết định đó, trừ trường hợp có khác biệt đáng kể trong những phát hiện tình huống và kết luận pháp lý. Các lý lẽ nên đúng nguyên tắc và phải theo một kiểu cách mang tính xây dựng.

Trong Phụ lục F có đưa ra một số ví dụ về những bản ý kiến nhất trí ngắn gọn.

PHẦN THỨ 7. ĐỌC ĐỂ VIẾT

Từ điển, từ đồng nghĩa, cẩm nang trích dẫn, và cẩm nang tham chiếu là những công cụ hỗ trợ viết cơ bản mà các thẩm phán nên luôn có sẵn. Các thẩm phán cũng cần quen với những cẩm nang về văn phong và ngữ pháp và tra cứu chúng khi có vấn đề phát sinh. Quyển The Elements of Style của Struck & White rất rõ ràng và chính xác. Quyển Modern English Usage của Fowler và cuốn Modern American usage rất đầy đủ và phong phú. Một thẩm phán đã phát biểu rằng: “Tôi nghĩ rằng các thẩm phán nên thường xuyên đọc sách dạy viết”.

Một số thẩm phán thấy rằng việc đọc những bản ý kiến trước đây cũng giúp họ viết rõ ràng hơn. Một thẩm phán phát biểu rằng: “Đôi khi tôi sẽ nhớ một bản ý kiến mà tôi nghĩ là đặc biệt tốt về dạy những nguyên tắc pháp lý. Các bản ý kiến trước đây sẽ trở thành một dạng sách giáo khoa hướng dẫn hữu ích”.

Ngoài ra, một thẩm phán khác lại cho biết: “Tôi luôn bảo nhân viên phải quay lại và đọc của một số người viết tốt để xem cách thức họ viết như thế nào, và cố gắng suy nghĩ về những điều đó khi viết”. Một người khác lại phát biểu rằng:

Tôi thấy rằng công cụ hữu hiệu nhất để bảo đảm chắc chắn rằng bài viết của bạn sẽ không chỉ có buồn chán và khó đọc là phải đọc về những thứ không phải về pháp luật. Tôi cho rằng bạn càng đọc nhiều sách không phải về pháp luật, thì bạn sẽ thu được nhiều thuật ngữ thông dụng thú vị hơn mà có thể dụng trong luật và bạn càng có thể tránh xa việc hay dùng biệt ngữ pháp lý hay dùng mãi những từ cũ kỹ và nhàm chán. Tôi thấy rằng khi đọc sách không về pháp luật, đôi khi một cụm từ nào đó sẽ ghi dấu ấn trong đầu bạn, đôi khi là một từ, đôi khi là một hình ảnh. Việc quen với các tình huống không phải pháp lý sẽ giúp bạn viết tốt hơn, vì nó giúp có những từ ngữ và hình ảnh ngoài sức tưởng tượng.

Cẩm nang này sẽ không hướng dẫn về việc cần có những gì trong danh mục sách đọc không về pháp lý của một thẩm phán (mặc dù một số thẩm phán cho rằng nên học theo cách viết của Earnest Hemingway và đây là một hình mẫu tuyệt vời khi viết văn bản pháp lý). Tuy nhiên, sau đây là những sách, bài viết và những tài liệu giúp những người viết các văn bản tố tụng có thể soạn thảo ra những bản ý kiến rõ ràng và chính xác… Ngoài ra, chúng ta còn có tác phẩm mới nhất của Thẩm phán Ruggero Aldisert là Opinion Writing (1990), một cuốn sách nên nằm trong danh mục sách nên đọc của mỗi thẩm phán.

==================   CÁC PHỤ LỤC   ===================

 

PHỤ LỤC A: Mẫu Biên bản ý kiến

Dưới đây là trích lục một bản ý kiến mà tòa tự đưa ra (per curiam) về biên bản ý kiến.

Đây là một khiếu kiện hợp nhất từ hai vụ việc… Các bị đơn khiếu kiện xin xem xét lại đối với các phán quyết cuối cùng về việc tịch thu và bán tài sản do [tòa hạt] tuyên ngày 6/7/1989 và ngày 17/5/1989. Chúng tôi không cần nêu lại các tình tiết của vụ việc này, vì chúng đã được nêu chi tiết trong hai bản ý kiến chi tiết của tòa, … Các tình tiết này được cho là có nhiều điểm tương đồng. Xin xem thêm [khiếu kiện liên quan].

Lý do quan trọng nhất [của bị đơn] để khiếu kiện xem xét lại là tòa hạt đã sai trong việc loại bỏ bào chữa của “đại lý không đáng tin cậy” đối với việc tịch thu tài sản theo luật [của bang]. Bào chữa này là một nỗ lực để tránh quy tắc về luật đại diện đã được thiết lập rằng người giao đại lý có trách nhiệm đối với bên thứ ba đối với các hành vi của đại lý trong phạm vi thẩm quyền thực sự và rõ ràng của đại lý đó. Xen xem vụ British American & Eastern Co. kiện Wirth Ltd., 592 F. 2d 75, 80 (tòa khu vực số 2, năm 1979. Những người khiếu nại … không tranh cãi về việc những người bị xem xét lại …, người nhận thế chấp các tài sản liên quan, là bên thứ ba. Và họ cũng không phủ nhận rằng [người bị khiếu kiện xem xét lại] giao dịch với đại lý của mình [công ty bất động sản] và rằng công ty bất động sản đã làm với tư cách là đại lý của mình. Tuy nhiên, họ nêu ra việc bào chữa đại lý không đáng tin cậy, vì cho rằng [bên bị khiếu kiện xem xét lại] nên bị cấm tịch thu tài sản vì bên đó đã biết được về việc quản lý kém của B______, là người giữ chức vụ chủ tịch của công ty bất động sản. Để chứng minh cho quan điểm này, họ đưa ra bằng chứng rằng [bên bị khiếu kiện xem xét lại] cho rằng B___ quản lý kém chính là nguồn gốc dẫn đến gian lận này.

Chúng tôi không thấy tin rằng tòa án hạt lại sai khi phản đối biện hộ về đại lý không đáng tin cậy. Cứ cho rằng có thể có lý lẽ cho việc phản biện này trong các trường hợp phù hợp, thì cũng tôi đã xem xét và xóa bỏ nó tại [trích dẫn]. Trên thực tế, bên đưa ra biện hộ về việc đại lý không đang tin cậy tại [trích dẫn] dường như là gióng nhau, về mọi mặt ngoại trừ tên, với tư cách là [bị đơn]. [trích dẫn]. Hơn nữa, ngay cả khi những bị đơn phản đối, thì những nguyên tắc về không dựa vào quyền (estoppel) tài sản bảo đảm cũng không cấm việc khiếu kiện, thì chúng tôi vẫn thấy lý do của ban hội thẩm [trích dẫn] là không mang tính chung thẩm trong hồ sơ. “Không thể cho rằng việc người nhận thế chấp biết được về gian lận trong một vụ thế chấp nghĩa là đại lý liên quan tham gia vào việc tự doanh”. [trích dẫn]. Chúng tôi thấy hồ sơ ghi rằng: “trên cơ sở chỉ thấy được những đồn đại thuyết phục nhưng không chắc chắn và những kết luận mang tính tình tiết nhưng không được chứng minh”, chúng tôi phản đối, và ban hội thẩm [trích dẫn] cũng phản đối, “biện hộ về đại lý không tin cậy”. [trích dẫn]

Các phán quyết của tòa cấp hạt đã được phê chuẩn.

PHỤ LỤC B: Mẫu lệnh Tóm tắt

Dưới đây là ví dụ về lệnh tóm tắt.

Liên quan đến những ghi chép trong hồ sơ của Tòa Hạt ____ của Hoa Kỳ:

1. Nguyên đơn …. khiếu kiện cho chính mình (pro se) đối với một lệnh đề ngày 21/12/1989 của Tòa Hạt ___ từ chối đơn đề nghị của bên khiếu kiện xin xem xét lại lệnh của tòa hạt đề ngày 12/10/1989 theo đó đưa ra đơn đề nghị chéo cho phán quyết tóm tắt đối với các bên bị đơn-bên bị khiếu kiện … vụ việc về quyền dân sự này phát sinh từ việc bên bị khiếu kiện không tuyển dụng bên khiếu kiện vào một vị trí trong Trung tâm Y tế Hành chính Cựu chiến binh tại ……

2. Khiếu kiện chính của bên khiếu kiện đối với việc khiếu kiện dường như là việc tòa hạt đã lạm dụng quyền tự quyết, diễn giải sai các tình tiết của vụ việc, áp dụng sai rất nhiều luật và giải thích sai ý định của quốc hội trong việc ban hành Đề mục VII của Luật Quyền Dân sự năm 1964.

3. Chúng tôi đã nghiên cứu kỹ mọi nội dung khiếu kiện của bên khiếu kiện, và thấy rằng các nội dung khiếu kiện đó đều không xác đáng, không có cơ sở. Chúng tôi xác nhận lại là đồng ý với những lý lẽ trình bày trong các bản ý kiến của …… đề ngày 12/10/1989 và 21/12/1989.

4. Lệnh trên của tòa hạt là đúng.

PHỤ LỤC C: Các tiêu chuẩn xem xét lại

Dưới đây là những ví dụ về tiêu chuẩn xem xét lại.

Chúng tôi rà soát việc tòa hạt phủ nhận một đơn đề nghị mở một phiên xử mới cho việc lạm dụng quyền tự quyết. Vụ Robins kiện Harum, 773, F.2d 1004, 1006 (Tòa khu vực số 9 1985). Tòa phúc thẩm phải xem xét liệu quyết định của tòa cấp dưới “dựa trên việc cân nhắc các tình tiết liên quan và liệu có hay không có sai sót rõ ràng trong phán quyết.” Citizens to Preserve Overton park, Inc, kiện Volpe, 401 U.S. 402, 416, 91 S.Ct. 814, 823, 28 L.Ed.2d 136 (1971).

Mục 10(j) của Luật Quan hệ lao động Quốc gia , 29 U.S.C Điều 160(j) năm 1982, cho phép tòa hạt đưa ra lệnh khẩn cấp tạm thời để phục hồi và giữ nguyên tình trạng (status quo) trong khi đợi quyết định của Ủy ban về việc một khiếu kiện về hành vi lao động không lành mạnh gây tác động tiêu cực là có cơ sở hay không. Ví dụ: Esseo kiện Pan American Grain Co., Inc., 805 F. 2d 23, 25 (Tòa khu vực số 1 1986); Fuchs kiện Hood Industries, Inc., 590 F.2d 395, 397 (Tòa khu vực số 1 1979);. Theo luật định, tòa hạt chỉ được phép đưa ra quyết định liệu có (1) lý do hợp lý để cho rằng có thể xảy ra một vi phạm đối với Luật, và (2) liệu một lệnh khẩn cấp tạm thời là hợp lý trong hoàn cảnh đó. Asseo, 805 F.2d at 25; Maram kiện Universidad Interamericana de Puerto Rico, 722 F. 2d 953, 959 (Tòa khu vực số 1, 1983).

Như đã nêu ở trên, khi khiếu nại để xem xét lại, việc xem xét của tòa mang tính:

giới hạn trong việc [quyết định] liệu tòa hạt có mắc lỗi rõ ràng trong việc phát hiện nguyên nhân hợp lý để cho rằng đã có những hành vi lao động không công bằng và liệu tòa hạt có lạm dụng quyền tự quyết của mình trong việc đưa ra biện pháp khẩn cấp tạp thời. Union de Tronquistas de Puerto Rico kiện Arlook, 586 F. 2d 872, 876 (Tòa khu vực số 1, 1978)

Asseo, 805 F.2d at 25. Trên cơ sở những tiêu chuẩn này, chúng ta quay lại vấn đề xem xét tính xác đáng, cơ sở của khiếu kiện.

* * *

Trong khi xem xét những phát hiện của các tòa về phá sản, chúng tôi và các tòa hạt chỉ có thể hủy bỏ những phát hiện mang tính tình tiết khi chúng tôi cho rằng rõ ràng là các phát hiện đó là sai lầm. Trong In re Killebrew, 888 F. 2d 1516, 1519 (Tòa khu vực số 5 1989). Tất nhiên là chúng tôi xem xét các quyết định pháp lý thêm một lần nữa. Trong In re Copton, 891 F.2d 1180, 1183 (Tòa khu vực số 5 1990). Do khiếu kiện này xoay quanh việc liệu [bên vay] có cố tình lừa dối [bên chủ nợ] – một quyết định mang tính tình tiết – nên chúng tôi áp dụng tiêu chuẩn về lỗi rõ ràng. Cf. In re Rubin, 875 F.2d 755, 758 (Tòa khu vực số 9 1989).

PHỤ LỤC D:  Mẫu đoạn kết

Sau đây là ví dụ về đoạn kết.

Vì những lý do trên, vụ việc được trả lại cho thẩm phán của tòa hạt để làm rõ hơn một cách nhanh và khả thi liệu thẩm phán có thể áp dụng cùng án đó nếu được áp dụng khung án thấp hơn là 10-16 tháng theo Cẩm nang. Trong trường hợp Thẩm phán ___ cho rằng không thể áp dụng mức án 16 tháng nếu áp dụng theo mức quá trình vi phạm hình sự mục IV, nếu thẩm phán đó muốn như vậy, [bị đơn] có thể khiếu kiện lại bằng cách gửi một thông báo khiếu kiện mới trong vòng 10 ngày kể từ ngày thẩm phán đó quyết định về việc trả lại hồ sơ và không cần phải gửi thêm các bản tóm tắt bổ sung. Ban bồi thẩm vẫn có thẩm quyền xét xử trong trường hợp khiếu kiện lại như vậy.

* * *

Do vậy, chúng tôi chấp nhận đơn khiếu kiện để xem xét lại và yêu cầu [cơ quan] không tiến hành thêm bất kỳ hoạt động tố tụng nào theo Các Quy tắc Hình phạt cho đến khi cơ quan này đã tham gia thêm các hoạt động đưa ra quy tắc theo mục 553. Tuy nhiên, theo quyền chế tài, chúng tôi cho rằng [cơ quan] được tự do giữ lại các vụ việc chưa xét xử đang tồn đọng và sau này sẽ tiếp tục tiến hành tố tụng khi ban hành lại một kế hoạch hành động xử phạt dân sự hành chính mang tính phân xử theo mục 1475.

* * *

Vì những lý do đã nêu ở phần trên, chúng tôi yêu cầu tòa hạt tiến hành các công việc sau: 1) Tòa sẽ xem xét lại lệnh về việc làm sạch VOC; và sẽ sửa đổi lệnh đó để yêu cầu [bị đơn] làm sạch VOC trong đất tại địa điểm …. đến một mức độ mà tòa cho là cần thiết để bảo vệ “sức khỏe công chúng” và vì “lợi ích công chúng”. 2) tòa sẽ xem xét lại vấn đề “chi phí gián tiếp”, và như chúng tôi đã nêu ở phần trên, giải thích bất kỳ sự phủ nhận nào về những chi phí đó như là một khoản phạt. Các nội dung khác của phán quyết của tòa hạt được chấp nhận.

PHỤ LỤC E:  Mẫu Ý kiến Phản đối

Sau đây là ví dụ về các bản ý kiến phản đối.

Tôi xin trình bày lý do đưa ra ý kiến phản đối như sau:

Câu hỏi liệu một quy định về chống mua lại có đưa ra một quy định về “bảo vệ đặc biệt” cho những người nắm giữ trái khoán không thể có một câu trả lời là “không” chỉ vì “các thành viên HĐQT độc lập” quyết định khước từ các quy định đó và phê chuẩn một giao dịch cụ thể. Các thành viên HĐQT này rõ ràng có quyền hành động theo hướng này theo các điều khoản của quy định đó như được công bố hoàn toàn. Một chức năng quan trọng của quy định về chống mua lại là để ngăn cản việc mua lại mang tính thù địch, bao gồm cả việc mua lại trái với lợi ích của cả người nắm giữ cổ phiếu và người nắm giữ trái khoán. Tôi cho rằng người ta không thể đúng đắn khi cho rằng quy định như vậy là “không có giá trị gì” đối với người nắm giữ trái khoán, ngay cả khi các thành viên HĐQT luật Delaware còn mắc nợ ủy thác chỉ riêng đối với các cổ đông. Do vậy, quy định về việc chống mua lại là một “bảo vệ đặc biệt” đối với người nắm giữ trái khoán, mặc dù chỉ là một số người có giới hạn.

Pháp luật chứng khoán liên bang không quy định nghĩa vụ phải tư vấn cho nhà đầu tư về những thông tin cơ bản về quản trị doanh nghiệp. Việc tiết lộ theo yêu cầu luật chứng khoán liên bang không phải là “một thủ tục thú tội hay hoạt động trong các hoạt động bào chữa thông thường. Cái cần thiết là tiết lộ các tình tiết khách quan quan trọng”. Data Probe Acquisition corp. kiện Data Lab, Inc. 722 F.2d 1, 5-6 (Tòa khu vực số 2 1983), cert, denied, 465 U.S. 1052, 104 S.Ct. 1326, 79 L. Ed. 2d 722 (1984). Đặc biệt đúng như vậy khi, giống như trong trường hợp này, những người khiếu kiện là nhà đầu tư là những tổ chức tài chính cao cấp thường có những khoản đầu tư lớn. Vai trò của pháp luật chứng khoán liên bang không phải là khắc phục những bất công có thể thấy được trong các giao dịch chứng khoán. Mà, như được đề cập trong vụ việc này, pháp luật chứng khoán liên bang sẽ chỉ có vai trò bài trừ những việc đưa ra những tuyên bố sai lệch hoặc gây nhầm lẫn hoặc việc bỏ sót thông tin quan trọng.

Liệu các thành viên HĐQT độc lập có vi phạm nghĩa vụ thiện chí mà họ được cho là phải gánh vác hoặc bằng cách khác hành động trái với nghĩa vụ ủy thác của họ, là vấn đề của pháp luật bang. Trong trường hợp này, khiếu kiện liên bang chỉ được xác nhận một cách có điều kiện, điều kiện rõ ràng là việc khiếu kiện theo luật pháp bang không thành công. Các khiếu kiện ở cấp bang được tòa hủy bỏ một cách chính đáng do thiếu thẩm quyền xử lý.

Trên cơ sở cho rằng hiện tại không có bất kỳ khiếu kiện cấp liên bang nào đang tồn đọng, tôi xin xác nhận lại một lần nữa, vì những lý do đã nêu trong các bản Ý kiến của Thẩm phán và Tòa Hạt.

* * *

Về nhiều khía cạnh, vụ việc này cho thấy cảnh sát đã hành động rất tốt. Tuy nhiên, cũng rõ ràng rằng các bị đơn đã quá thiếu hiểu biết và rằng các cảnh báo Miranda đã không được gửi đi. Mặc dù những người khiếu kiện không bị giam giữ, nhưng sự thật là họ đã không được sự bảo vệ của luật sư và cũng đã không khước từ việc có luật sư. Khi tòa hạt xét xử, các cán bộ chính phủ lẽ ra phản cần trọng hơn để bảo đảm rằng [các bị đơn] đã hiểu rõ về tình hình lúc đó và về quyền của họ. Xin xem Henry kiện Dees, 658 F.2d 406, 411 (Tòa khu vực số 5 1981.)

PHỤ LỤC F: Mẫu Ý kiến Ngắn gọn

Sau đây là những ví dụ về văn bản ý kiến nhất trí ngắn gọn.

Tôi nhất trí với đa phần trong thảo luận kỹ lưỡng của Thẩm phán X về các vấn đề của vụ việc này. Tôi hoàn toàn nhất trí với Phần IIA và C và cơ sở của khiếu kiện đối với [tên bị đơn] và các khiếu kiện theo luật của bang. Tôi cũng đồng ý với những tuyên bố trong phần II B rằng “…..”. Tôi cũng đồng ý rằng “…………..”.

Tuy nhiên, tôi thấy không cần thiết phải đưa ra câu trích dẫn từ vụ Rice kiện Ohio Department of Transportation 887 F2d 716, 719 (tòa khu vực 6, năm 1989), mà câu này có thể được diễn giải rằng lý thuyết của vụ Will kiện Sở cảnh sát bang Michigan – Hoa Kỳ – 109 Ct. 2304, 105 L. Ed. 2d 45 (1989),về một khía cạnh nào đó, cấm việc khiếu kiện theo bản 1983 đối với các cán bộ nhà nước nếu vụ việc đó là về các hành động được họ thực hiện với tư cách là cán bộ nhà nước. Tuy nhiên, tôi cho rằng Will chỉ cấm kiện các cán bộ nhà nước khi những cán bộ đó bị kiện với tư cách là cán bộ nhà nước.

Theo đó, tôi xác nhận rằng quyết định của tòa rằng theo các tình tiết của vụ việc, các bên bị đơn …. thỏa mãn điều kiện để được miễn trừ.

* * *

Tôi nhất trí với kết quả mà Thẩm phán ___ đưa ra và quan điểm của Thẩm phán ___, trừ phần phân tích của Thẩm phán đối với vấn đề Sửa đổi Thứ nhất. Vì những lý do đã nêu trong phần ý kiến nhất trí của tôi (trích dẫn), tôi cho rằng …. các quy định nêu về thời gian, địa điểm cho phép, và các giới hạn về cách thức trong phần phát biểu về nghề nghiệp của [nguyên đơn].

=====

*

Ấn phẩm này của Trung tâm Tư pháp Liên bang được thực hiện trong khuôn khổ chức năng nhiệm vụ của Trung tâm. Các ý kiến phân tích và khuyến nghị nêu trong ấn phẩm này là của Ban Biên tập. Đối với các vấn đề chính sách, Trung Tâm chỉ phát ngôn thông qua Hội đồng của mình được thành lập theo quy định của pháp luật.

*Chú thích của Dự án USAID STAR-Plus: Tên gọi của tài liệu trong bản gốc tiếng Anh là Judicial Writing Manual (tạm dịch là Sổ tay soạn thảo ý kiến tư pháp). Nội dung của sổ tay này nhằm hướng dẫn thẩm phán và thư ký Tòa án tại Hoa Kỳ soạn thảo ý kiến tư pháp. “Ý kiến Tư pháp” là văn bản giải trình của tòa án về các phán quyết mà tòa đưa ra. Đây là một dạng văn bản tố tụng rất phổ biến trong hệ thống Luật Chung (Common Law). Nội dung Sổ tay được các thẩm phán và thư ký tòa án ở Hoa Kỳ đánh giá rất cao. Mặc dù Việt Nam không phải là một nước theo hệ thống Luật Chung, song chúng tôi thiết nghĩ nội dung của cuốn Sổ tay này có thể sẽ hữu ích cho các thẩm phán và thư ký của tòa án Việt Nam trong quá trình soạn thảo các văn bản liên quan tới công việc chuyên môn của mình.

Để tiện theo dõi, chúng tôi xin dùng khái niệm “văn bản tố tụng” thay cho thuật ngữ “ý kiến tư pháp” trong tài liệu này.

TRUNG TÂM TƯ PHÁP LIÊN BANG (HOA KỲ) – DỰ ÁN USAID STAR-Plus (Dịch từ bản gốc tiếng Anh là Judicial Writing Manual)*

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Dẫn lại từ THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

 

 

 

 

Thích và chia sẻ bài viết này

Tin tức khác