Vụ án “ 3 trong 1”
Tháng 6/2004, nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Lan khởi kiện bị đơn – vợ chồng ông Phan Văn Tấn và bà Dương Thị Liễu (*) về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán” đối với căn nhà E.1 đường Lê Văn Hưu, phường 3, quận X, Thành phố H.
Kéo theo mối quan hệ tranh chấp này là hàng loạt vấn đề cần giải quyết đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Và lẽ ra, các vấn đề này phải được xử lý trong cùng vụ án, nhưng Tòa án nhân dân quận X , Thành phố H đã tách ra thành nhiều vụ án khác nhau để giải quyết. Kết quả là, cả 03 bản án xét xử về các quan hệ tranh chấp liên quan đến vụ án này đều bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy án để xét xử lại từ sơ thẩm.
Vậy là sau hơn… 6 năm “đáo tụng đình” các đương sự lại phải quay về điểm xuất phát ban đầu – Tòa án nhân dân quận X, Thành phố H.
1/ Sơ lược nội dung sự việc và quá trình tố tụng vụ án của cấp sơ thẩm
Ngày 18/9/2001, vợ chồng ông Phan Văn Tấn và bà Dương Thị Liễu có lập giấy tay chuyển nhượng căn nhà E.1 đường Lê Văn Hưu, quận X, Thành phố H cho bà Nguyễn Thị Lan với giá 260 lượng vàng SJC. Bà Lan đã trả tiền, vàng nhiều lần cho vợ chồng ông Tấn, bà Liễu, tổng cộng là 56 lượng vàng SJC và 8.600.000 đồng.
Ngày 11/11/2001 thông qua bà Lan, vợ chồng ông Tấn, bà Liễu đã vay của cha, mẹ bà Lan là ông Nghiêm, bà Nhân 67 lượng vàng SJC và cầm cố cho ông Nghiêm, bà Nhân 04 căn phòng nằm trong căn nhà E.1 Lê Văn Hưu. Đồng thời vào ngày 27/10/2001 ông Tấn, bà Liễu cũng cho ông Nguyễn Văn Hòa (là em trai bà Lan) thuê một căn phòng thuộc nhà E.1 Lê Văn Hưu theo hình thức: ông Hòa sẽ đưa cho vợ chồng ông Tấn 20 lượng vàng SJC và được ở trong thời hạn 5 năm không phải trả tiền thuê nhà. Hết thời hạn này, vợ chồng ông Tấn sẽ trả lại số vàng 20 lượng và ông Hòa trả lại phòng thuê.
Ngày 8/9/2003 vợ chồng ông Tấn, bà Liễu lại tiếp tục lập giấy tay chuyển nhượng ½ căn nhà E.1 Lê Văn Hưu cho người khác là vợ chồng ông Tuấn, bà Thịnh với giá 150 lượng vàng SJC. Ông Tuấn, bà Thịnh đã giao 35.000.000 đồng tiền đặt cọc và trực tiếp trả cho các chủ nợ của ông Tấn, bà Liễu với thỏa thuận là các khoản tiền này sẽ được tính vào tiền mua bán nhà. Tổng cộng số tiền ông Tuấn, bà Thịnh đã giao cho vợ chồng ông Tấn, bà Liễu là: 331.045.000 đồng. Ngoài ra đôi bên còn thỏa thuận cấn trừ căn nhà 20/E đường Nguyễn Trung Trực trị giá 100 lượng vàng SJC vào số vàng mua bán ½ căn nhà E.1 Lê Văn Hưu. Theo đó, vợ chồng ông Tấn, bà Liễu nhận nhà 20/E Nguyễn Trung Trực và phía ông Tuấn, bà Thịnh chỉ phải thanh toán thêm 50 lượng vàng để nhận ½ căn nhà E.1 Lê Văn Hưu.
Tuy nhiên, đến ngày 11/12/2003, vợ chồng ông Tấn, bà Liễu lại lập hợp đồng đặt cọc (mới) nhận tiếp của bà Lan 70 lượng vàng SJC nữa, đồng thời cam kết sau khi hoàn tất thủ tục hóa giá căn nhà đối với nhà nước, sẽ thực hiện việc chuyển nhượng căn nhà E.1 Lê Văn Hưu cho bà Lan. Ngày 22/12/2003, bà Lan giao tiếp cho vợ chồng ông Tấn 250.000.000 đồng để đóng tiền hóa giá nhà. Tổng cộng số tiền, vàng vợ chồng ông Tấn, bà Liễu đã nhận của bà Nguyễn Thị Lan từ tháng 4/2001 đến ngày 22/12/2003 là 140 lượng vàng SJC và 58.600.000 đồng.
Đến tháng 3/2004, sau khi đã hoàn tất thủ tục hóa giá nhà và đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, vợ chồng ông Tấn, bà Liễu đã đổi ý không thực hiện việc mua bán nhà, nên bà Lan có đơn khởi kiện vụ việc tại Tòa án nhân nhân quận X, Thành phố H. để yêu cầu giải quyết.
Sau khi Tòa án thụ lý vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Lan và bị đơn là vợ chồng ông Tấn, bà Liễu, ngày 8/10/2004, ông Nghiêm, bà Nhân xác lập “Văn bản chuyển giao quyền yêu cầu” cho bà Lan về việc đòi vợ chồng ông Tấn, bà Liễu phải giao trả 67 lượng vàng SJC đã vay của ông Nghiêm, bà Nhân theo giấy vay ngày 11/11/2001.
Sau đó, bà Nguyễn Thị Lan lập văn bản ủy quyền cho ông Nguyễn Thái Văn tham gia tố tụng để giải quyết các yêu cầu nói trên trong vụ án. Đồng thời ông Nguyễn Văn Hòa (em trai bà Lan) cũng có văn bản ủy quyền cho ông Văn đòi lại 20 lượng vàng SJC theo hợp đồng thuê nhà đã ký giữa ông Hòa với vợ chồng ông Tấn, bà Liễu ngày 27/10/2001.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, đại diện cho bà Lan và ông Hòa là ông Nguyễn Thái Văn có đề nghị rút lại yêu cầu đòi số vàng 67 lượng mà ông Tấn, bà Liễu đã vay của cha mẹ bà Lan là ông Nghiêm, bà Nhân cũng như số vàng 20 lượng ông Tấn, bà Liễu còn nợ của ông Hòa theo hợp đồng thuê nhà ngày 27/10/2001 để tách ra giải quyết bằng vụ án khác.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 72/2005, ngày 14/12/2005 xét xử về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà” giữa nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Lan và bị đơn – ông Phan Văn Tấn, bà Dương Thị Liễu, Tòa án nhân dân quận X, Thành phố H. nhận định về việc tách các yêu cầu trên như sau:
“…đối với khoản tiền vay 67 lượng vàng SJC mà ông Tấn ký vay của bà Nhân và ông Nghiêm và 20 lượng vàng trong hợp đồng thế chân thuê nhà mà ông Tấn, bà Liễu ký với ông Hòa thì ông Văn đã rút lại yêu cầu đòi ông Tấn, bà Liễu trả hai khoản tiền này. Mặt khác, hai khoản tiền này nếu có thì là xuất phát từ giao dịch vay tài sản giữa ông Tấn với bà Nhân, ông Nghiêm và hợp đồng thuê nhà giữa ông Tấn, bà Liễu với ông Hòa, không phải xuất phát từ hợp đồng mua bán nhà giữa bà Lan với ông Tấn, bà Liễu. Do vậy, sẽ được tách ra giải quyết trong vụ án dân sự khác khi có yêu cầu tranh chấp”
Từ nhận định trên, bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận X đã không xem xét giải quyết các yêu cầu đối với 2 khoản vàng 67 lượng và 20 lượng nêu trên trong vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà” mà tách ra giải quyết bằng các vụ án khác.
Ngày 27/4/2009, Tòa án nhân dân quận X tiếp tục đưa ra xét xử 02 vụ án còn lại.
Vụ thứ nhất là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với 67 lượng vàng giữa nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Lan (do nhận chuyển giao quyền yêu cầu từ ông Nghiêm, bà Nhân) và bị đơn là ông Phan Văn Tấn, bà Dương Thị Liễu.
Vụ thứ hai là vụ án “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà” với yêu cầu đòi lại 20 lượng vàng thế chân, giữa nguyên đơn – ông Nguyễn Văn Hòa (do bà Lan đại diện) và bị đơn là vợ chồng ông Tấn, bà Liễu.
Sau khi xét xử sơ thẩm, các đương sự đều có đơn kháng cáo đối với 03 bản án nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm.
2/ Huỷ án vì những sai phạm nghiệp vụ “sơ đẳng”
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 1440/2009/DSPT ngày 13/8/2009 xét xử phúc thẩm đối với vụ án về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa vợ chồng ông Tấn, bà Liễu với bà Lan ( do nhận chuyển giao quyền yêu cầu từ ông Nghiêm, bà Nhân) Tòa án nhân dân Thành phố H nhận định:
…Căn cứ vào đơn khởi kiện bổ sung của bà Lan ngày 20/6/2008 (bút lục số 51) thì bà Lan có yêu cầu là khi ông Tấn, bà Liễu trả đủ số vàng vay thì ông Nghiêm, bà Nhân sẽ hoàn trả 04 căn phòng.
Xét bản án sơ thẩm số 15/2009/DSST ngày 27/4/2009 của Tòa án nhân dân quận X thì Hội đồng xét xử phúc thẩm không thấy yêu cầu trên của bà Lan được xem xét và giải quyết. Tại phiên Tòa phúc thẩm, bà Lan thừa nhận hiện tại bà đang là người quản lý, sử dụng 04 căn phòng này. Nhưng ông Tấn lại cho rằng bà Lan đã sử dụng 04 căn phòng mà ông thế chấp để cho người khác thuê. Như vậy, Tòa cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là không giải quyết hết yêu cầu của đương sự được quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự…
Đồng thời trong phần nhận định, cấp phúc thẩm cũng Lưu ý Tòa cấp sơ thẩm khi giải quyết lại vụ án cần xem xét lại tư cách khởi kiện của nguyên đơn.
Từ nhận định trên, Tòa án nhân dân Thành phố H đã tuyên xử:
Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 15/2009/DSST ngày 27/4/2009 của Tòa án nhân dân quận X.
Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân quận X để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Ngày 19/8/2009, Tòa án nhân dân Thành phố H tiếp tục đưa ra xét xử phúc thẩm đối với vụ án “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà” giữa vợ chồng ông Tấn, bà Liễu với ông Nguyễn Văn Hòa (do bà Lan đại diện)
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 1488/2009 ngày 19/8/2009, Tòa án nhân dân Thành phố H nhận định:
Ngày 19/7/2004, bà Nguyễn Thị Lan khởi kiện ông Phan Văn Tấn đòi lại 87 lượng vàng SJC gồm 67 lượng vàng theo giấy vay ngày 11/11/2001 và 20 lượng theo hợp đồng thuê phòng ngày 27/10/2001
Ngày 28/7/2004 bà Lan nộp tạm ứng án phí 10.725.000 đồng trên số tiền 87 lượng vàng kiện đòi.
Do vụ án có các yêu cầu khác nhau nên Tòa sơ thẩm tách hai vụ án, gồm vụ án tranh chấp hợp đồng vay giữa nguyên đơn bà Lan với bị đơn ông Tấn, bà Liễu (thụ lý số 185/DSST ngày 28/7/2004) và vụ án tranh chấp hợp đồng thuê nhà giữa nguyên đơn ông Hòa với bị đơn ông Tấn, bà Liễu (thụ lý số 233/DSST ngày 12/10/2004)
Đối với vụ án tranh chấp hợp đồng thuê nhà, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí (bút lục 09) lưu tại hồ sơ thì tiền tạm ứng án phí vụ án hợp đồng thuê được tách ra từ số tiền tạm ứng án phí 10.725.000 đồng bà Lan đã tạm nộp, nhưng không có tài liệu nào thể hiện cụ thể khoản tiền tạm ứng án phí trong vụ án hợp đồng thuê được tách ra, mặt khác khi xét xử vụ án “Hợp đồng thuê” Tòa sơ thẩm nhận định phần án phí của nguyên đơn, ông Hòa sẽ được giải quyết trong vụ án “Hợp đồng vay”, do đó toàn bộ số tiền tạm ứng án phí của hai vụ án đã được Tòa án nhân dân quận X tuyên trả cho bà Lan theo bản án xét xử hợp đồng vay tài sản số 15/2009/DSST ngày 27/4/2009.
Xét việc tách vụ án cùng với số tiền tạm ứng án phí không có quyết định như vậy là không đúng quy định về nhập, tách vụ án theo Điều 38 Bộ luật Tố tụng dân sự 2005.
Đối với giao dịch thuê nhà giữa ông Hòa với ông Tấn, tại phiên Tòa phúc thẩm, ông Hòa (do bà Lan đại diện) xác nhận, ông Hòa hiện đang sử dụng căn phòng thuê nhà ông Tấn, bà Liễu tại căn nhà E.1 Lê Văn Hưu. Nay ông Hòa kháng cáo yêu cầu trả lại căn phòng đang ở cho ông Tấn, bà Liễu.
Xét, khi giải quyết vụ án Tòa sơ thẩm buộc ông Tấn, bà Liễu hoàn trả ông Hòa 20 lượng vàng thế chân thuê nhà mà không xem xét xác định căn phòng ông Hòa sử dụng để buộc phải giao trả cho bị đơn, như vậy là không đúng. Do phần này chưa được xem xét, Tòa phúc thẩm không thể bổ sung nên Hội đồng xét xử hủy án sơ thẩm.
Từ nhận định trên, Tòa án nhân dân Thành phố H đã tuyên xử:
Hủy toàn bộ bản án số 16/2009/DSST ngày 27/4/2009 của Tòa án nhân dân quận X, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận X. xét xử lại theo thủ tục chung.
Ngày 27/5/2010 Tòa án nhân dân Thành phố H tiếp tục đưa ra xét xử phúc thẩm đối với vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà” giữa nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Lan và bị đơn là vợ chồng ông Tấn, bà Liễu.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 621/2010/DSPT ngày 27/5/2010, Tòa án nhân dân Thành phố H nhận định:
…xét yêu cầu kháng cáo của ông Tấn, bà Liễu về khoản tiền phải trả thì có liên quan đến 2 khoản vàng 67 lượng và 20 lượng. Vì ông Tấn, bà Liễu cho rằng trong số vàng ông, bà nhận làm nhiều lần từ bà Lan mà đúc kết theo giấy ngày 18/9/2001 thì có liên quan đến việc ký nhận 2 khoản vàng này. Vì vậy, các khoản tiền, vàng giao nhận giữa bà Lan, ông Nghiêm, bà Nhân, ông Hòa với vợ chồng ông Tấn chỉ được xem xét, đối chiếu toàn diện và triệt để khi có sự tham gia của tất cả các đương trong vụ án, để xác định 87 lượng vàng này là của ai, và số vàng này có phải riêng biệt như lời trình bày của bà Lan hay nằm trong khoản 70 lượng vàng của giấy mua bán ngày 18/9/2001 theo lời trình bày của phía bị đơn.
Xét tại Tòa sơ thẩm, theo yêu cầu của ông Tấn, bà Liễu thì khi hủy hợp đồng mua bán nhà với bà Lan, ông bà trả tiền mua bán nhà cho bà Lan thì bà Lan phải trả lại nhà. Nhưng án sơ thẩm khi xử buộc ông Tấn, bà Liễu trả lại tiền, vàng mua bán nhà và bồi thường thiệt hại cho bà Lan, lại không buộc bà Lan trả lại nhà cho ông Tấn, bà Liễu là chưa giải quyết hết yêu cầu của đương sự…thiếu sót này của Hội đồng xét xử sơ thẩm, Tòa phúc thẩm không thể khắc phục.
Do vậy, cần thiết hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về Tòa sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung, có triệu tập ông Nghiêm, bà Nhân, ông Hòa tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Theo bản án số 1488/2009/DSPT ngày 19/8/2009 của Tòa án nhân dân Thành phố H đã xử hủy bản án số 16/2009/DSST ngày 27/4/2009 về “Tranh chấp hợp đồng thuê phòng” giữa ông Nguyễn Văn Hòa (do bà Lan đại diện) với vợ chồng ông Tấn, bà Liễu, giao hồ sơ về Tòa án nhân dân quận X giải quyết lại, nên khi thụ lý lại vụ án này thì xem xét nhập vụ án của ông Hòa kiện vào vụ án này.
Từ nhận định trên, Tòa án nhân dân Thành phố H đã tuyên xử:
Hủy toàn bộ bản án số 72/2005/DSST ngày 14/12/2005 của Tòa án nhân dân quận X.
Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân quận X để giải quyết lại theo thủ tục chung.
(còn tiếp…)
Luật sư HỒ NGỌC DIỆP
---------------------------
(*) tên đương sự trong vụ án đã được thay đổi