Luật sư Hồ Ngọc Diệp - Đoàn Luật sư Thành Phố Hồ Chí Minh

Câu "Quân xử thần tử... Phụ xử tử vong..." là của ai ?

16/10/2016, 06:09

Mỗi khi phê phán Nho giáo và chế độ phong kiến, nhiều người thường đem câu nói: “ Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” (Vua khiến bề tôi chết mà bề tôi không chết là bất trung; Cha khiến con chết mà con không chết là bất hiếu) và cho rằng, Nho giáo dạy con người những điều hết sức phi nhân bản.

Giai thoại văn chương Việt Nam có kể về tài ứng đối của Đinh Nhật Thận. Đinh Nhật Thận sinh năm Ất Hợi (1815) tại làng Thanh Lạo, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ cử nhân khoa Đinh Dậu (1837), đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1838) được bổ làm Tri phủ. Ông thường giao du với Cao Bá Quát và Nguyễn Hàm Ninh.

Sau Cao Bá Quát dấy binh chống lại triều đình, Đinh Nhật Thận bị tình nghi, bắt giải về kinh giam, sau được thả ra (Quốc triều hương khoa lục chép về Đinh Nhật Thận: “ Vì là bạn cũ của tên giặc Cao bá Quát nên bị bắt giam, sau được thả” ( Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, Nxb TPHCM, trang 191). Vì mến tài ông, vua Tự Đức lưu ông lại ở kinh đô để dạy con em trong hoàng tộc và cũng là một kế để dễ bề kiềm tỏa ông. Ông mất năm Bính Dần (1866). Quốc triều đăng khoa lục chép về ông: “Ông đọc sách qua một lượt là nhớ. Làm văn, cất bút là xong, không cần phải nháp, ý tứ mới lạ, phần nhiều không theo khuôn sáo lối văn thời bấy giờ. Văn thơ ông làm xong là bỏ qua, không lưu lại bài nào” ( Cao Xuân Dục, Quốc triều đăng khoa lục, Nxb Văn học, trang 69).

Tục truyền khi ở kinh đô, một hôm Đinh Nhật Thận cùng các quan đại đại thần theo thuyền ngự đi ngoạn cảnh trên sông Hương. Nhân bàn luận về Nho giáo, ông nhắc đến câu: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” và cho đó là một câu chí lí. Nghe xong vua Tự Đức phán: Vậy trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này chết đi!

Nghe vua phán vậy, các quan trên thuyền đều lo sợ thay cho ông, vì không nhảy xuống sông thì không được, mà nhảy xuống thì bị chết một cách oan uổng. Ấy vậy mà ông vẫn bình tĩnh lạy nhà vua xong đâu vào đấy rồi lao mình xuống dòng sông. Mọi người tưởng đây là nơi an nghỉ ngàn thu của ông. Nhưng chỉ trong giây lát, ông ngoi đầu lên khỏi mặt nước và tay bám vào thuyền ngự. Vua Tự Đức hỏi: Sao khanh không ở dưới đó luôn mà còn trở lên đây? Ông đáp: Thần định ở luôn dưới đó, nhưng khi vừa xuống đến đáy sông thì thần gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần như sau:Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn/ Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà?” (Ta gặp ám chúa phải chịu oan đã đành/ Còn ngươi gặp được minh quân sao lại trầm mình?), hạ thần nghe ông ấy mắng quá đúng cho nên phải ngoi lên tâu để bệ hạ rõ!

Vua Tự Đức cả cười, sai thị vệ kéo ông lên thuyền ngự, lấy quần áo cho ông thay rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng cho cái tài ứng đối mẫn tiệp, mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt.

Giai thoại nghe qua thì rất hay, nhưng giai thoại này chỉ dành cho những người không am tường Nho giáo kể cho nhau nghe lúc “trà dư tửu hậu” mà thôi!. Vì một người như Đinh Nhật Thận đã nhuần nhuyễn Tứ thư, Ngũ kinh, sách Bách gia chư tử…mà lại tán dương một câu hết sức là phi nhân bản như thế!

Nho giáo chỉ trung với ông vua có đủ tư cách, đáng cho mình thờ; nếu không thì có thể bỏ mà thờ ông vua khác, như Khổng tử đã bỏ vua nước Lỗ.

Mối quan hệ Phụ – Tử trên tinh thần “ Phụ từ, tử hiếu”. Bổn phận làm con là phải hiếu với cha mẹ. Khổng tử giải thích: “ Sanh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ; tế chi dĩ lễ” (Hễ làm con, khi cha mẹ còn sống, phải phụng sự cho có lễ, khi cha mẹ chết, phải chôn cất cho có lễ, rồi những khi cúng giỗ, cũng phải giữ đủ lễ –  Luận ngữ : Vi chính II, 5)

Lấy Lễ mà thờ cha mẹ không phải cha mẹ làm điều gì trái đạo cũng theo. Khổng tử nói: “ Sự phụ mẫu cơ gián,kiến chí bất tòng, hựu kính bất vi, lao nhi bất oán” ( làm con thờ cha mẹ, như thấy cha mẹ lầm lỗi thì nên can gián một cách dịu ngọt. Như thấy ý tứ cha mẹ chẳng thuận theo lời khuyên của mình, thì mình vẫn một lòng cung kính và chẳng trái nghịch. Như cha mẹ giận mà khiến mình làm công việc cực khổ, chớ có đem dạ oán hờn – Luận ngữ: Lý nhân IV, 18)

Khổng tử khuyên người ta thờ cha mẹ một cách sáng suốt. Không phải bất kỳ điều gì cha mẹ sai khiến đều vâng theo, gọi là có hiếu. Người có hiếu nên biết phân biệt những điều lành của cha mẹ mà tuân theo, những điều dữ của cha mẹ mà can gián.

Có lẽ vì nghe qua trong câu: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu” xuất hiện những từ “Quân”; “Thần”; “Phụ”; “Tử” có âm hưởng của Nho giáo nên nhiều người quy câu nói ấy là của Nho gia. Thực ra, câu nói ấy chính là của Thái tử Phù Tô nói khi nhận lệnh vua cha là Tần Thủy Hoàng bắt phải chết do Lý Tư ngụy tạo di chiếu. Tướng Mông Điềm đề nghị đem quân về kinh đô xem có thực là di chiếu của Tần Thủy Hoàng nhưng Thái tử Phù Tô cản lại bằng câu nói: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”

Như chúng ta biết nhà Tần theo chế độ Pháp gia chứ không phải Nho gia. Quản tử chủ trương: “ Tôn quân ti thần, dĩ thế thắng dã” (Tôn vua lên, hạ quan xuống, lấy cái uy thế mà thắng lướt), thế là đặt vua trên luật, mở đường cho hơn 2000 năm chuyên chế. Chính Pháp gia mới đưa ra quan niệm: “ Trung thần bất sự nhị quân” (tôi trung không thờ hai vua).

Hơn nữa họ trọng cái “thế” (quyền thế) của vua khiến vua hóa ra độc tài, bắt bề tôi chết thì chẳng kể phải trái, bề tôi cũng phải chết, không chết thì không trung (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Từ Hán Võ đế trở đi, quan niệm đó được các vua chấp nhận, và hình như không có nhà Nho nào phản đối, vì vậy mà nền quân chủ của Trung Hoa hóa ra chuyên chế (Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc tập 1. Nxb Văn hóa, trang 191)

VH (sưu tầm)

Thích và chia sẻ bài viết này

Tin tức khác

Theo Dõi Trên FACEBOOK

Theo Dõi Trên Google Plus

Thống Kê