Luật sư Hồ Ngọc Diệp - Đoàn Luật sư Thành Phố Hồ Chí Minh

Câu chuyện VN Pharma: Từ dư luận đến luật pháp.

11/11/2017, 17:40

Bao lâu những lý do và kỹ thuật lập pháp thể hiện tại điều 153 BLHS về tội buôn lậu, còn được xem là ý chí của nhà làm luật, thì việc điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo về tội buôn bán hàng giả, vẫn chỉ là sự mong muốn của dư luận.

Từ “cái lý” của dư luận.

Câu chuyện công ty cổ phần VN Pharma kinh doanh mặt hàng thuốc chữa bệnh ung thư giả, thời gian qua đã gây nên một làn sóng phẫn nộ trong dư luận.

Làn sóng đó càng trở nên dữ dội hơn khi người dân biết rằng, mặt hàng thuốc chữa bệnh ung thư mà các bị cáo thực hiện hành vi buôn bán, thực chất là thuốc chữa bệnh giả. Theo đó, Hầu hết các giấy tờ để hợp thức hóa cho thuốc chữa ung thư H - Capita đều bị làm giả. Đáng nói là, các kết quả kiểm nghiệm từ Bộ Y tế cho thấy, lô thuốc nói trên chứa 97% hoạt chất capecitabine là thuốc không rõ nguồn gốc, kém chất lượng, không được sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người…

Như vậy, theo quy định của Luật Dược, rõ ràng đây là mặt hàng thuốc chữa bệnh ung thư giả. Thế nhưng, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm không xử lý các bị cáo về hành vi buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, mà lại điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo về tội “Buôn lậu”. Đây chính là lý do làm cho dư luận bức xúc và cảm thấy “vô lý” khi theo dõi quá trình xét xử vụ án này.

Mặc dù hiện nay, nhiều người tạm hài lòng với kết quả của Bản án phúc thẩm ngày 30/10 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại TP.HCM về việc hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để tiến hành điều tra, xét xử lại vụ án theo hướng thay đổi tội danh các bị cáo từ “Buôn lậu” sang “Buôn bán hàng giả”.

Tuy nhiên vấn đề đặt ra là, hành vi kinh doanh thuốc giả của các bị cáo trong vụ án này, có đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh” theo quy định tại điều 157 BLHS hay không?

Vì sao đối tượng hàng hóa được xác định là hàng giả, nhưng cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm vẫn phải điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo về tội buôn lậu?

Đến  “cái lý” của luật pháp.

Khi xây dựng điều 153 BLHS về “Tội buôn lậu”, nhà làm luật chủ yếu dùng để chế tài các hành vi buôn bán trái phép qua biên giới, mà không phân biệt đối tượng hàng hóa đó là hàng cấm, hàng giả hay hàng kém chất lượng.

Điều này được thể hiện rõ tại các điểm a; c khoản 1 điều 153 BLHS quy định về tội buôn lậu. Theo đó, đối với các trường hợp được quy định tại các điều 193,194,195,196, 230, 232, 233, 236 và 238 BLHS (là các tội phạm liên quan đến “Ma túy”; “Vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự”; “Vật liệu nổ”; “Vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ”; “Chất phóng xạ”; “Chất cháy, chất độc”) thì bất luận người phạm tội thực hiện hành vi buôn bán trái phép ở đâu (trong nước hay “qua biên giới”) khi bị phát hiện, họ đều phải bị xử lý theo các tội danh tương ứng với các điều luật nêu trên mà không phải là tội buôn lậu. (Vì quy định tại các điểm a; c khoản 1 điều 153 loại trừ các trường hợp này)

Tuy nhiên, đối với người có hành vi buôn bán trái phép qua biên giới các mặt hàng khác, không thuộc trường hợp quy định tại các điều luật nói trên, thì theo quy định tại các điểm a; c khoản 1 điều 153, cho dù trước đó họ từng bị xử phạt hành chính hay bị kết án về một trong các tội danh quy định tại các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 BLHS (trong đó có Tội buôn bán hàng cấm – Điều 155 và Tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh – Điều 157) thì vẫn phải xử lý họ về tội buôn lậu, mà không xem xét trách nhiệm hình sự về hành vi buôn bán hàng cấm hay hàng giả như những trường hợp phạm tội ở trong nước.

Sở dĩ nhà làm luật quy định việc xử phạt hành chính hoặc bị kết án về một trong các tội phạm quy định tại các điều luật nêu trên như là “điều kiện đủ” để xử lý về hành vi buôn lậu là vì, các tội phạm này đều có chung một khách thể bị xâm phạm là “Trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước”.

Điều này hoàn toàn khác với những trường hợp quy định tại các điều 193,194,195,196, 230, 232, 233, 236 và 238 BLHS, là các tội phạm về ma túy và xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, mà các điểm a; c khoản 1 điều 153 đã loại trừ để xử lý hành vi phạm tội trực tiếp bằng các điều luật này.    

Như vậy, theo tinh thần quy định tại khoản 1 điều 153, bản thân hành vi buôn bán trái phép qua biên giới đối với các mặt hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh cũng như một số loại hàng hóa khác (từ điều 155 đến điều 158), không trực tiếp cấu thành tội phạm theo các điều luật này (như những trường hợp phạm tội ở trong nước), mà nó chỉ là “điều kiện đủ” để xem xét trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu.

Chẳng hạn, một người thực hiện hành vi buôn bán trái phép qua biên giới mặt hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài hay hàng giả là thuốc chữa bệnh với giá trị hàng phạm pháp dưới một trăm triệu đồng, nhưng do trước đó họ đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn bán hàng cấm hoặc hàng giả nên lần vi phạm này đã bị khởi tố về hình sự. .

Trong trường hợp này, mặc dù đối tượng hàng hóa của cả hai lần vi phạm đều là hàng cấm hoặc hàng giả. Nhưng rõ ràng, theo quy định tại khoản 1 điều 153, hành vi buôn bán hàng cấm hay hàng giả nói trên, không thể bị xử lý về tội buôn bán hàng cấm, hàng giả (theo các điều 155, 157), mà chỉ có thể bị khởi tố điều tra về tội buôn lậu theo quy định tại điều 153 BLHS.

Như vậy có thể thấy, cùng là hành vi “buôn bán trái phép qua biên giới” nhưng khi thiết kế điều 153 BLHS về tội buôn lậu, nhà làm luật đã rất chặc chẽ trong việc phân định những vi phạm nào thuộc trường hợp phạm tội buôn lậu và những trường hợp nào cần phải xử lý bằng các tội danh độc lập khác.

Và bao lâu, những lý do và kỹ thuật lập pháp này còn được xem là ý chí của nhà làm luật, thì việc điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo về tội buôn bán hàng giả, vẫn chỉ là sự mong muốn của dư luận.

Luật sư HỒ NGỌC DIỆP

Thích và chia sẻ bài viết này

Tin tức khác