Luật sư Hồ Ngọc Diệp - Đoàn Luật sư Thành Phố Hồ Chí Minh

Về chế độ Thi cử dưới triều vua Lê Thánh Tông (1422-1497)

08/03/2017, 07:27

Ở Việt Nam ta, con đường khoa cử Nho học đã được mở ra từ thời Lý. Nhưng thời Lý chưa thật sự chú trọng việc đào tạo đội ngũ quan lại bằng Nho học và thông qua chế độ thi cử.

Đến thời Trần, điều này được chú trọng hơn. Con đường khoa cử được mở ra để đào tạo quan lại nhanh chóng trở thành ưu thế. Nho sĩ đông hơn, số người tiến thân và thành công bằng thi cử Nho học nhiều hơn.

Dưới thời Trần, các vua Trần đã đã xác lập rõ ràng hơn khoa thi, nội dung thi và cách thức thi, đặc biệt là dưới triều vua Trần Nhân Tông. Những thống kê trong cuốn “ Các nhà Khoa bảng Việt Nam” cho thấy: trong gần 4 thế kỷ tồn tại của hai triều Lý và Trần,  tổ chức được 15 khoa thi, lấy đỗ được 60 người. Dưới triều Hồ tuy tồn tại không lâu, nhưng cũng tổ chức được 3 khoa thi với 15 người đỗ.

Dưới triều Lê, việc mở các khoa thi để thi tuyển đội ngũ quan lại được chú trọng vượt bậc. Chỉ trong 32 năm của các đời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông (1426-1459), đã có 9 khoa thi với 107 người được nêu tên Bảng vàng và được trọng dụng. Sang đời vua Lê Thánh Tông, sự học và thi cử tuyển chọn người tài được chú trọng phát triển mạnh mẽ và đi vào nề nếp hơn trước rất nhiều.

Lê Thánh Tông (1442 – 1497), là vị vua mà tên tuổi và sự nghiệp vẻ vang đã gắn liền với giai đoạn cường thịnh của Việt Nam nửa cuối thế kỷ 15. Trong gần 40 năm làm vua, ông đã tiến hành nhiều cải cách về chính trị, quân sự, kinh tế; khởi xướng bộ luật Hồng Đức được xem là sự kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của Việt Nam; đề cao nhiều giá trị văn hóa dân tộc. Bản thân ông là một nhà thơ lớn, để lại nhiều tác phẩm có giá trị . Ông cũng là người cho thực hiện nhiều chính sách cải cách trong giáo dục và thi cử. Vua Lê Thánh Tông theo phương châm “lấy trọng đạo sùng Nho làm việc trước, kén kẻ sĩ làm trước tiên phong trong phép trị nước”.

Chăm lo cho thi cử nên vua Lê Thánh Tông có nhiều điều kiện thuận lợi để lựa chọn người tài, người có học hành đỗ đạt tham gia quan lại. Vua Lê Thánh Tông từng ra chỉ: “Phải xét những người biết chữ, có tài cán mới nên lưu lại để tiện cho việc xét đoán cáo trình các việc và tiện cho dân. Nếu không biết chữ thì cho nghỉ.”Về cơ bản vua Lê Thánh Tông muốn tạo dựng được một bộ máy quan lại gồm những con người ưu tú trong giới trí thức Nho học thời bấy giờ. Họ được lựa chọn kỹ càng, qua thi cử, làm chỗ dựa vững chắc cho triều đình.

Nghiên cứu chế độ thi cử dưới triều vua Lê Thánh Tông, người ta thấy có những ưu điểm nổi bật sau:

1/ Về thu hút và bồi dưỡng nhân tài: Vua Lê Thánh Tông cho bãi bỏ chế độ bổ dụng các vương hầu, quý tộc vào các trọng trách của triều đình, mà chỉ lấy những người có khả năng thực sự. Các thân vương, công hầu…được ban cấp bổng lộc nhiều, quyền lợi lớn hơn các vị quan chức đại thần, nhưng nếu không có tài năng, không qua đỗ đạt thi cử Nho học thì cũng không được bổ nhiệm làm quan. Đây là một chính sách cải cách rất mạnh mẽ nhằm loại bỏ tầng lớp địa chủ quý tộc nắm giữ quyền lực cả về kinh tế và chính trị vốn vẫn là rường cột của các vương triều trước đây; loại bỏ nguy cơ cát cứ địa phương. Với chủ trương khuyến khích Nho học và một chế độ khoa cử nề nếp, cùng lúc vua Lê Thánh Tông đạt được 2 mục đích: vừa tuyển chọn được những người có thực lực tài năng cho đất nước; vừa đưa được Nho học thâm nhập sâu trong đời sống xã hội. Như vậy, trên nền tảng tư tưởng chính trị Nho giáo, chính sách đào tạo của vua Lê Thánh Tông đã nâng cao trình độ văn hóa trong toàn xã hội; đặc biệt chú trọng tiêu chuẩn hóa trình độ học vấn của đội ngũ quan lại nhằm có được một bộ máy cai trị có chất lượng, phục vụ triều đình và đất nước. Trong vòng hơn 40 năm cai trị, vua Lê Thánh Tông đã thường xuyên, liên tục tổ chức các kỳ thi tuyển nhân tài cung cấp cho bộ máy nhà nước; đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của xã hội thời đó. Hầu hết các vị đỗ đạt trong các kỳ thi này đều được tham gia vào nhiều vị trí quyền lực trong triều đình và các địa phương.

2/ Về hệ thống đào tạo: Thời kỳ này tồn tại đồng thời 2 hệ thống trường công và trường tư.

Trường công do triều đình quản lý và tổ chức . Đó là Quốc Tử Giám và các trường đặt ở phủ huyện. Cơ quan quản lý việc học là Bộ Lễ. Bộ Lễ có khá nhiều nhiệm vụ ở nhiều lĩnh vực như: văn hóa, y tế, ngoại giao, tế lễ, yến tiệc, đi sứ, thiên văn, biểu tấu, tăng đạo, giáo phường, nhã nhạc. Vì vậy, việc học ở hệ thống nhà nước như là một bộ phận hành chính giúp đào tạo hệ thống quan lại. Quốc Tử Giám là cơ quan giáo dục cao nhất trong nước. Ở thời Lê Thánh Tông đã rất quan tâm củng cố tổ chức này. Vua đã cắt cử chức Tế tửu- là chức quan đứng đầu Quốc Tử Giám, có nhiệm vụ phụ trách chung và làm chủ tế ở Văn Miếu; cấp phó là chức tư nghiệp đặc trách việc giảng dạy và học tập. Các chức Giáo thụ làm nhiệm vụ dạy học và nhiều chức sắc khác giúp việc trông coi, nghiên cứu, lưu giữ tư liệu, thư viện sách chữ Nho…

Những người được vào học Quốc Tử Giám được chia làm 2 loại. Một loại là giám sinh gồm có con cái các quan viên đã thi đỗ 4 trường kỳ thi hương. Một loại gọi là học sinh gồm quân và dân đã thi đỗ 4 trường kỳ thi hương( loại này tới năm 1483 mới lập ra). Các giám sinh được chia thành 3 loại gồm: thượng xá sinh học được nhận 10 quan tiền học bổng mỗi tháng; loại thứ 2 là trung xá sinh học được nhận 9 quan tiền học bổng mỗi tháng; loại thứ 3 là hạ xá sinh nhận học bổng 8 quan tiền. Đây là những người đã đỗ kỳ thi Hương và trúng tuyển kiểm tra của Bộ Lễ. Họ được phép lưu trú tại Quốc Tử Giám, được nhận học bổng và ôn luyện để chuẩn bị cho kỳ thi Hội . Vua  Lê Thánh Tông đã cho tu bổ lại Quốc Tử Giám (vào năm 1483) trở thành không chỉ là nơi thờ tự của đạo Nho mà còn là một” học cung”, học đường thật sự trang trọng; nơi lưu giữ và đề cao tên tuổi những người có trình độ Nho học uyên thâm, những nhà khoa bảng tài tình của đất nước.Ở hệ thống trường tư: trong lịch sử giáo dục nước ta, trường tư xuất hiện trước trường công. Dưới thời Lê Thánh Tông thì trường tư đã trở nên khá phổ biến.Việc học được chú trọng nên đâu đâu cũng có trường tư. Nhà Nho nào cũng có quyền mở lớp dạy học trò. Nhiều gia đình có điều kiện thì mới hẳn thầy Nho về nhà dạy học cho con, và có thể nhận thêm học sinh trong làng đến học. Những trường, lớp tư này gọi là Hương học. Tuy là trường tư, nhưng các thầy đồ Nho vẫn dạy trò đầy đủ chương trình học từ thấp lên cao để có đủ trình độ đi thi. Có nhiều học trò từ các trường tư vẫn đỗ Tiến sĩ. Học trò trường công và trường tư được đối xử ngang nhau khi đi thi. Họ cùng thi một đề, một hội đồng giám khảo, và khi thi đỗ thì đều được bổ dụng.

Hoàn thiện thể lệ thi cử trở thành chế độ cấp nhà nước: Tổ chức thi cử là độc quyền thuộc triều đình quản lý do Bộ Lễ đảm nhiệm. Những nội dung và quy định cụ thể mỗi kỳ thi do Bộ Lễ đề xuất và Vua là người quyết định cuối cùng. Thể lệ này đến đời vua Lê Thánh Tông đã rất hoàn chỉnh.

Thứ nhất, về cấp độ và tần suất tổ chức thi: Việc thi cử được tổ chức theo trình tự từ thấp lên cao lần lượt các kỳ thi: thi Hương được tổ chức ở cấp địa phương. Thi Hội và thi Đình là kỳ thi tuyển cấp quốc gia, giành cho những người đã trúng tuyển qua kỳ thi hương và các giám sinh đã mãn khóa học ở Quốc Tử Giám. Nếu họ đỗ ở các kỳ thi Hội và thi Đình sẽ là sự vẻ vang tột đỉnh của một Nho sĩ. Các kỳ thi này cũng là sự kiểm tra đánh giá tài năng thật sự của mỗi Nho sĩ để rồi được tuyển dụng bổ nhiệm các chức quan trong triều. Từ năm 1463, vua Lê Thánh Tông bắt đầu định lệ thi Hội và thi Đình 3 năm một lần.

Thứ 2,  về đối tượng dự thi: ưu tiên chủ yếu cho những người đã đỗ trong kỳ thi hương. Nhưng cấm một số đối tượng như nếu có liên quan đến tội: phản nghịch, bất hiếu, bất nghĩa, loạn luân… Thậm chí những người thuộc phường chèo, con hát cũng không được thi. Đây là một quy định thể hiện sự kỳ thị phân biệt những người làm nghề phường chèo, gánh hát của vua Lê Thánh Tông thời đó. Ngoài ra, có mở rộng cho một số đối tượng quan lại chưa đỗ kỳ thi Hương nếu muốn thi cũng được phép thi.

Thứ 3, về số lượng dự thi: Vua quy định, mỗi huyện lớn nhất được cử 200 sĩ tử; huyện vừa được cử 150 sĩ tử, huyện nhỏ được 100 sĩ tử dự kỳ thi Hương. Danh sách này được gửi lên Bộ Lễ duyệt lại và chốt danh sách chính thức. Chỉ những ai đỗ kỳ thi hương mới tiếp tục được vào Quốc Tử Giám (làm giám sinh ôn luyện ở đây); hoặc có thể học tư để dự kỳ thi Hội và thi Đình.

Thứ 4, về quy chế thi:  Đã quy định khá chặt chẽ các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình. Thi Hương bao gồm 4 kỳ thi; thí sinh phải đỗ kỳ 1 mới được thi tiếp kỳ 2, đỗ kỳ 3 mới tiếp tục thi kỳ 4. Ai đỗ cả 4 kỳ mới được thi cấp cao hơn là thi Hội và thi Đình( còn gọi là Đại khoa). Thi Hội cũng gồm 4 kỳ tương tự như thi Hương nhưng với chất lượng cao hơn. Ai đỗ cả 4 kỳ thi hội mới được tiếp tục vào kỳ thi Đình.Thi Đình còn gọi là Điện thí, tức là thí sinh thi ngay tại sân cung điện của nhà vua và do vua trực tiếp ra đề thi. Tất cả các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình đều có quy định chặt chẽ về trông thi, làm bài thi của thí sinh và chấm thi.

Thứ 5, danh hiệu thi cho người đỗ đạt: Những người đỗ cả 4 kỳ thi Hương được gọi là Hương cống hoặc Cử nhân; bậc thấp hơn thì gọi là Tú tài hoặc Sinh đồ.
– Những người đỗ 4 kỳ thi Hội được cấp bằng Tiến sĩ. Đây là danh hiệu cao nhất giành cho người tham gia đầy đủ các khoa thi. Tại kỳ thi Đình sẽ xếp loại các Tiến sĩ đã đỗ ở kỳ thi Hội theo 5 bậc từ cao xuống thấp gồm: Trạng nguyên; Bảng nhãn; Thám hoa; Hoàng giáp; Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Trong đó, 3 bậc đầu còn gọi là Tam khôi.

Trong hơn 800 năm tồn tại của Khoa cử Nho học Việt Nam, chỉ có 183 khoa thi với 2.898 người đỗ. Còn theo sách  “ Các nhà Khoa bảng Việt Nam” thống kê: Dưới thời vua Lê Thánh Tông trị vì ( từ 1460-1497),  đã tổ chức được 12 kỳ thi Đại khoa; trong đó có tất cả 501 người đỗ đạt gồm: có 9 Trạng nguyên; 10 Bảng nhãn; 10 Thám hoa; 159 Hoàng giáp; 313 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Đây quả là một cống hiến vượt bậc của vua Lê Thánh Tông đối với đất nước.

Đúng như Phan Huy Chú đã nhận định trong  sách Lịch triều Hiến chương loại chí : “ Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp”.

Theo lichsuvietnam

Thích và chia sẻ bài viết này

Tin tức khác